Cái tôi trữ tình trong thơ lưu quang vũ
bé gi¸o dôc vµ ®µo t¹o
Trêng ®¹i häc vinh
TrÇn thÞ kim liªn
C¸i t«i tr÷ t×nh
Trong th¬ lu quang vò
chuyªn ngµnh: lý luËn v¨n häc
m· sè: 60.22.32
luËn v¨n th¹c sÜ ng÷ v¨n
Ngêi híng dÉn khoa häc:
Pgs.ts. lu kh¸nh th¬
Vinh - 2009
1
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU.............................................................................................................1
1. Lí do chọn đề tài.......................................................................................1
2. Lịch sử vấn đề...........................................................................................2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu..............................................................7
4. Mục đích nghiên cứu.................................................................................7
5. Phương pháp nghiên cứu..........................................................................7
6. Cấu trúc của luận văn................................................................................8
Chương 1. Từ nhận thức chung về cái tôi trữ tình đến việc tìm hiểu
sự nghiệp sáng tác của Lưu Quang Vũ.....................................................9
1.1. Khái niệm “cái tôi” và “cái tôi trữ tình”................................................9
1.1.1. Cái tôi..................................................................................................9
1.1.2. Cái tôi trữ tình.....................................................................................10
1.2. Các hình thức biểu hiện cái tôi trữ tình trong văn học...........................13
1.2.1. Cái tôi trữ tình trong văn học dân gian...............................................13
1.2.2. Cái tôi trữ tình trong văn học cổ điển.................................................13
1.2.3. Cái tôi trữ tình trong thơ lãng mạn......................................................14
1.2.4. Cái tôi trữ tình trong thơ cách mạng...................................................15
1.3. Những thành tựu trong sự nghiệp sáng tác của Lưu Quang Vũ.............15
Chương 2. Cái tôi trữ tình trong thơ Lưu Quang Vũ qua những nguồn
cảm hứng tiêu biểu......................................................................................23
2.1. Cái tôi tha thiết yêu thương đắm đuối....................................................24
2.1.1. Cảm xúc về quê hương đất nước........................................................24
2.1.2. Cảm xúc về người thân.......................................................................27
2.1.3. Cảm xúc về số phận của trẻ em..........................................................32
2.2. Cái tôi da diết và đầy biến động trong tình yêu.....................................35
2.2.1. Những cảm xúc trong trẻo tuổi học trò...............................................36
2.2.2. Tình yêu đầu đời và hạnh phúc ngắn ngủi..........................................38
2.2.3. Tình yêu “những năm tháng đau xót và hi vọng”...............................41
2
2.2.4. Tình yêu là lẽ sống “Anh yêu em và anh tồn tại”...............................44
2.3. Cái tôi trải nghiệm đau đớn trong những cảm nhận về chiến tranh.......52
2.3.1. Cảm xúc thơ mộng, lạc quan, tin tưởng thời kì đầu bước vào cuộc
chiến tranh.....................................................................................................53
2.3.2. Nhận thức về những bi kịch và tổn thất của chiến tranh.....................56
2.3.3. Những đau đớn xé lòng và những lời chất vấn bỏng rát
về chiến tranh................................................................................................60
2.4. Cái tôi khắc khoải trước hiện thực đời sống..........................................64
2.4.1. Nghèo đói, thiên tai.............................................................................65
2.4.2. Những dự cảm về tương lai.................................................................69
Chương 3. Nghệ thuật thể hiện cái tôi trữ tình trong thơ
Lưu Quang Vũ.............................................................................................73
3.1. Giọng điệu..............................................................................................73
3.1.1. Giọng trẻ trung, trong sáng.................................................................74
3.1.2. Giọng xót xa cay đắng .......................................................................76
3.1.3. Giọng đắm đuối nồng nàn...................................................................78
3.2. Thể thơ...................................................................................................82
3.2.1. Thể thơ 5 tiếng....................................................................................82
3.2.2. Thể thơ 7, 8 tiếng................................................................................84
3.2.3. Thể thơ tự do.......................................................................................87
3.3. Ngôn ngữ................................................................................................91
3.3.1. Ngôn ngữ giàu sắc thái biểu cảm........................................................92
3.3.2. Ngôn ngữ đa nghĩa giàu tính tạo hình.................................................94
3.4. Một số môtip hình ảnh chủ đạo trong thơ Lưu Quang Vũ.....................97
3.4.1. Hình tượng gió....................................................................................98
3.4.2. Hình tượng mưa..................................................................................101
3.4.3. Hình tượng lửa....................................................................................104
3.4.4. Hình tượng quả chuông.......................................................................107
KẾT LUẬN.........................................................................................................110
TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................................114
3
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Từ trước đến nay, khi nhắc đến Lưu Quang Vũ, nhiều người thường
nghĩ đến một kịch gia nổi tiếng của sân khấu kịch nói Việt Nam. Chính sức
sáng tạo mãnh liệt ở mảng sáng tác này đã đem lại vinh quang cho anh. Trong
tư cách là một kịch gia, Lưu Quang Vũ đã khẳng định được vị trí vai trò và
ảnh hưởng của mình trên “địa hạt sân khấu hiện đại Việt Nam”. Với hơn 50
vở kịch và những giá trị của nó, anh đã được đánh giá là “nhà viết kịch lớn
nhất thế kỷ này của Việt Nam (thế kỉ XX)” (Phan Ngọc).
Tháng 9 năm 2000, Lưu Quang Vũ vinh dự nhận giải thưởng Hồ Chí
Minh về Văn học nghệ thuật cũng bởi những đóng góp to lớn ấy của anh cho
nền sân khấu nước nhà.
Nhưng đọc những tài liệu viết về Lưu Quang Vũ từ khi anh còn nhỏ cho
đến lúc trưởng thành và nổi tiếng, có lẽ chúng ta sẽ rất ngạc nhiên trước một
tâm hồn vô cùng nhạy cảm, tinh tế và dễ xúc động. Không những thế, anh còn
là một người hội tụ nhiều tài năng và ở mặt nào anh cũng tỏ ra xuất sắc, ẩn
chứa và báo hiệu sự tỏa sáng rực rỡ. Ở con người tài hoa này, có thể thấy “cốt
cách thi sĩ vẫn là nét nổi trội nhất”.
1.2. Lưu Quang Vũ là một tài thơ “thuộc loại bẩm sinh”. Ngay từ tập thơ
đầu tiên năm 1968 - khi vừa tròn 20 tuổi - in chung với nhà thơ Bằng Việt (tập
Hương cây- Bếp lửa) anh đã được xem là một trong những hiện tượng thơ của
thập niên 60 thế kỉ XX. Xuất hiện từ cao trào của cuộc kháng chiến chống Mỹ
cứu nước, trong dàn đồng ca của thơ trẻ thời kỳ này, thơ Lưu Quang Vũ đã
sớm định hình được một cá tính riêng. Với một giọng điệu riêng, một cách
biểu hiện riêng, anh đã góp một tiếng thơ sôi nổi, tươi mới, mát lành, có ý
nghĩa tích cực đối với sự phát triển và đổi mới của thơ ca thời kỳ này.
4
Từ tập thơ đầu tay cho đến khi cả hàng trăm bài thơ của anh được công
bố, bạn đọc yêu thơ đều bị hấp dẫn bởi một hồn thơ nồng nàn, đắm đuối mà
vô cùng chân thành, giản dị, không hề cầu kỳ chải chuốt câu chữ. Dù là những
rung động hồn nhiên, những cảm xúc rất chân thành và ngay cả những lúc
tâm trạng “bộn bề” nhất anh đều gửi gắm vào thơ. Quả là, đối với anh “thơ
mới là nơi anh ký thác nhiều nhất”. Với thơ, anh đã tìm thấy niềm vui, sự chia
sẻ và cả niềm tin yêu cuộc đời theo cách riêng của mình. Thể hiện điều ấy
trong thơ, Lưu Quang Vũ đã tạo nên một phong cách riêng, một giọng điệu
riêng, một cái tôi riêng, giàu sức ám ảnh trong thơ ca Việt Nam hiện đại.
Thế nhưng, đã có một thời gian, nhiều bài thơ của Lưu Quang Vũ bị coi
là lạc điệu, là không hợp với thời cuộc, bị đặt sang bên lề cuộc sống, không
được phổ biến. Đến mãi sau này, nó mới được tập hợp và ra mắt bạn đọc. Có
thể nói, những phần chưa công bố, phần bị xem là lạc điệu ấy mới chính là
con người thật nhất, chân thành mà tài hoa, giản dị mà tinh tế. Đó là một cái
tôi rất riêng, rất Lưu Quang Vũ.
1.3. Thơ Lưu Quang Vũ xứng đáng được quan tâm, nghiên cứu một cách
nghiêm túc, đầy đủ, toàn diện để thấy được đóng góp của anh đối với nền văn
học nước nhà.
Chọn đề tài Cái tôi trữ tình trong thơ Lưu Quang Vũ, chúng tôi muốn
góp một cái nhìn đầy đủ hơn, có hệ thống hơn về một gương mặt thơ độc đáo,
một cá tính thơ mạnh mẽ, một phong cách thơ sắc nét trong thơ ca Việt Nam
thời kỳ hiện đại. Từ đó giúp người đọc có thể có được một cái nhìn đầy đủ
hơn về Lưu Quang Vũ: một nhà soạn kịch tài năng, một cá tính thơ độc đáo.
2. Lịch sử vấn đề
Trên thi đàn Việt Nam, Lưu Quang Vũ xuất hiện với một phong cách thơ
riêng biệt, độc đáo. Không sắc sảo, cũng không vồ vập ồn ào, hồn thơ Lưu
Quang Vũ đôn hậu, hiền hòa và thiết tha tình nghĩa. Chính vì thế, thơ anh dễ
5
đi vào lòng người, gây được cảm tình cho độc giả. Với Lưu Quang Vũ, thơ
luôn là một phần của tâm hồn, của cuộc đời, của lẽ sống, của tình yêu.
Chặng đường thơ của Lưu Quang Vũ trải dài từ những năm kháng chiến
chống Mĩ đến những năm tháng thời kỳ đất nước đổi mới và dừng lại khi anh
qua đời năm 1988.
Người đọc biết đến Lưu Quang Vũ ngay từ tập thơ đầu tay in chung với
Bằng Việt, tập Hương cây - Bếp lửa. Ngoài 20 bài thơ trong tập này, Lưu
Quang Vũ chưa được chú ý nhiều mặc dù cảm xúc tràn đầy anh vẫn sáng tác
thơ bên cạnh kịch và truyện ngắn. Rồi những năm 80 đầy những dự cảm và
biến đổi lớn lao trong đời sống dân tộc, Lưu Quang Vũ ào ạt cho ra đời hàng
loạt vở kịch. Chỉ hơn 5 năm, anh đã có hơn 50 vở kịch mà nhiều vở đã đạt
giải cao, được công chúng đón nhận nhiệt tình. Và người đọc đã có phần lãng
quên Lưu Quang Vũ - nhà thơ. Nhưng sau sự ra đi đột ngột của anh và vợ là
thi sĩ Xuân Quỳnh, thơ anh được công bố rộng rãi với nhiều tập thơ được in:
Mây trắng của đời tôi (1989), Bầy ong trong đêm sâu (1993), và một số tập
thơ đã tương đối hoàn chỉnh: Cuốn sách xếp lầm trang, Cỏ tóc tiên, và gần
đây nhất, năm 2008, cuốn Di cảo Nhật kí - thơ cũng vừa được ấn hành.
Mỗi vần thơ của Lưu Quang Vũ càng đọc càng thấy hấp dẫn bởi sự nhẹ
nhàng mà sâu lắng của nó. Và cũng bởi thơ anh không theo một khuôn khổ,
không chịu một sự ràng buộc, gò bó nào. Anh đã trải hồn mình vào thơ, đã
sống thật với thơ không hề dấu diếm. Từ đây gương mặt thơ Lưu Quang Vũ
được nhìn nhận, đánh giá một cách đầy đủ và rõ nét hơn.
Cuốn Lưu Quang Vũ thơ và đời do Lưu Khánh Thơ biên soạn, xuất bản
năm 1997, được coi là cuốn sách tổng hợp đầy đủ nhất về thơ Lưu Quang Vũ.
Cuốn sách được chia thành hai phần:
Phần đời gồm có hai bài viết về cuộc đời Lưu Quang Vũ của mẹ và em
gái anh. Ngoài ra, còn một bài nữa nói về thơ Lưu Quang Vũ của Vũ Quần
6
Phương: “Đọc hết những bản thảo của anh để lại, tôi thấy thơ mới là nơi anh
kí thác nhiều nhất và tôi tin nhiều bài thơ của anh sẽ thắng được thời gian”.
Đọc phần đời của Lưu Quang Vũ, người đọc chú ý đến số phận trắc trở với
những chặng đường gian truân, không bằng phẳng của một tài năng nghệ
thuật. Đồng thời hiểu được phần nào mối duyên nợ của anh với thơ, hiểu
được vì sao anh vẫn thường xuyên sáng tác thơ ngay cả những lúc anh tỏa
sáng trên sân khấu và thơ anh bị coi là “lạc điệu”.
Phần thơ gồm có121 bài, trong đó có nhiều bài trước đó chưa từng được
xuất bản.
Cuốn Lưu Quang Vũ tài năng và lao động nghệ thuật cũng do Lưu
Khánh Thơ sưu tầm và biên soạn, xuất bản năm 2001, ra đời nhân dịp Lưu
Quang Vũ được nhận giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật. Cuốn
sách đã giới thiệu rất nhiều bài viết, bài phê bình của nhiều tác giả như Hoài
Thanh, Lê Đình Kỵ, Vũ Quần Phương, Phạm Xuân Nguyên, Anh Ngọc, Bích
Thu, Hoàng Sơn,... Những bài viết này đã cho thấy sự đánh giá của giới phê
bình về thơ Lưu Quang Vũ từ nhiều góc độ.
Điểm lại những bài viết, bài phê bình về thơ Lưu Quang Vũ chúng ta có
thể tổng kết ở những nội dung sau:
2.1. Các bài nghiên cứu đã tập trung chủ yếu vào việc khẳng định tài
năng thơ ca của Lưu Quang Vũ.
Hoài Thanh trong bài viết Một cây bút nhiều triển vọng đã đánh giá
những vần thơ của Lưu Quang Vũ “nó là vàng thật, đúng nó là thơ. Lưu
Quang Vũ có nhiều câu, nhiều đoạn đúng là thơ, lại có cả một bài thơ rất
hay. Năng khiếu của anh đã rõ. Miễn là anh đi đúng nhất định anh sẽ đi xa”
[43, 22].
Vũ Quần Phương trong bài Đọc thơ Lưu Quang Vũ đã nhận xét “Tôi
thấy trước sau cốt cách thi sỹ vẫn là nét nổi trội nhất trong tâm hồn anh. Tôi
7
trộm nghĩ, về lâu dài sự đóng góp của Lưu Quang Vũ về thơ còn lớn hơn về
kịch” [43, 33]. Lê Minh Khuê cũng đã có đánh giá tương tự trong bài viết
Truyện ngắn Lưu Quang Vũ: “Vũ là thơ”, “Bản thân anh cũng luôn đánh giá
thơ là quan trọng của đời anh” [43, 134].
Tác giả Anh Ngọc cũng cho rằng, chỉ chiếm phân nửa trong tập Hương
cây - Bếp lửa cũng đủ để Lưu Quang Vũ: “có một vị trí vững vàng, bởi một
hồn thơ dào dạt, một tài thơ sắc sảo với vẻ hồn nhiên đến như là ngẫu hứng,
với một mạch nguồn hình ảnh và từ ngữ đầy trực cảm và đột biến tuôn ra
dường như bất tận” [43, 109]. Còn Nguyễn Thị Minh Thái trong bài viết Thơ
tình Lưu Quang Vũ cũng đã cảm nhận được rằng: “Trong tính cách sáng tạo
của con người tài hoa trẻ trung Lưu Quang Vũ thì thơ là hồn cốt thâm hậu
nhất” [43, 92], và “đi suốt chiều dài đời thơ Lưu Quang Vũ, tôi có cảm giác
như đi vào kho báu. Ở những câu thơ ta nhặt vô tình nhất cũng óng ánh một
vẻ đẹp riêng, không hiểu sao chỉ có ở thơ Lưu Quang Vũ - một vẻ đẹp trong
vắt của thi ca” [43, 95], và chỉ rõ thơ Lưu Quang Vũ còn rất nhiều điều cần
khám phá.
Như vậy qua những đánh giá cảm nhận ở trên, ta thấy các nhà phê bình
nghiên cứu đã khẳng định Lưu Quang Vũ trước hết và trên hết là một nhà thơ
tài hoa.
2.2. Nhiều bài nghiên cứu, phê bình cũng đã đi sâu vào tìm hiểu các
phương diện thể hiện trong thơ Lưu Quang Vũ.
* Đề cập đến những nội dung lớn trong thơ Lưu Quang Vũ
- Về quê hương đất nước
Các tác giả như Vũ Quần Phương, Phạm Xuân Nguyên đều thống nhất
trong đánh giá nhận xét về cảm hứng dân tộc trong thơ Lưu Quang Vũ: quan
tâm đến vẻ đẹp đất nước, “ngợi ca tầm vóc vĩ đại và sự hi sinh cao cả của
người dân”[43, 49].
- Về thơ tình
8
Thơ tình chiếm một số lượng khá lớn trong sự nghiệp sáng tác của Lưu
Quang Vũ. Trong những bài viết của mình, các tác giả Vũ Quần Phương, Vũ
Quang Vinh, Phạm Xuân Nguyên đều có phát hiện chung về thơ tình Lưu
Quang Vũ: với Lưu Quang Vũ tình yêu là số phận. Tình yêu trong anh có
nhiều cung bậc phong phú, nhưng bao trùm lên trên hết vẫn là sự cao thượng,
là niềm tin ở con người và tình yêu. Ở mảng sáng tác này trong thơ Lưu
Quang Vũ, Lưu Khánh Thơ, Nguyễn Thị Minh Thái đặc biệt chú ý nhiều đến
hình ảnh người con gái: “Hình ảnh người con gái trong thơ tình Lưu Quang
Vũ thường rất đẹp”, “Cuối cùng con thuyền thơ của Lưu Quang Vũ đã cập
bờ đạt tới hình ảnh hoàn hảo về nhân vật trữ tình Em trong tập thơ” [43, 94].
* Nhiều bài đi sâu tìm hiểu cách thức thể hiện trong thơ Lưu Quang Vũ.
- Một yếu tố được các nhà phê bình rất chú ý đó là những biểu tượng của
thế giới nghệ thuật thơ Lưu Quang Vũ.
Trong bài viết Lưu Quang Vũ một tâm hồn trở gió, tác giả Phạm Xuân
Nguyên đã phát hiện gió là một biểu tượng, biểu trưng cho toàn bộ thế giới
thơ Lưu Quang Vũ, làm nên bản sắc của riêng thế giới nghệ thuật ấy. Tác giả
đã đánh giá: “Những trang thơ anh có rất nhiều gió” [43, 77].
Vương Trí Nhàn lại khám phá một biểu tượng khác: mưa - biểu tượng
này thường gắn với rất nhiều bài thơ tài hoa của Lưu Quang Vũ: “Trong các
thi sỹ đương thời, Vũ là người nhạy cảm với mưa, thân thuộc với mưa hơn ai
hết”.
- Yếu tố thứ hai về cách thức biểu hiện trong thơ Lưu Quang Vũ được
nói đến khá tập trung là giọng điệu.
Hoài Thanh đã nhận thấy “Câu thơ Lưu Quang Vũ thường ngọt ngào hiền
hậu”. Lưu Khánh Thơ, Bích Thu cũng dùng từ “đắm đuối” để nói về giọng
điệu thơ Lưu Quang Vũ.
Như vậy, có thể thấy rằng những bài viết, nghiên cứu về thơ Lưu Quang
Vũ, các nhà nghiên cứu phê bình đã có đóng góp nhất định trong việc phát
9
hiện những nét đặc sắc trong thơ của Lưu Quang Vũ. Tuy nhiên, những bài
viết đó mới chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu một vài khía cạnh riêng lẻ chứ
chưa có một chuyên luận nào, một công trình nghiên cứu nào đi sâu nghiên
cứu thơ Lưu Quang Vũ mà cụ thể là cái tôi trữ tình trong thơ Lưu Quang Vũ.
Chính vì vậy chúng tôi đi vào phạm vi đề tài còn bỏ ngỏ này.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Vì đối tượng nghiên cứu của đề tài là cách thể hiện cái tôi trữ tình trong
thơ cho nên nguồn dẫn liệu mà chúng tôi khảo sát là tất cả các tập thơ đã xuất
bản của Lưu Quang Vũ:
- Hương cây - Bếp lửa (in chung với Bằng Việt - 1968)
- Mây trắng của đời tôi (1989)
- Bầy ong trong đêm sâu (1993)
- Lưu Quang Vũ - Thơ và đời (1997)
- Lưu Quang Vũ - Di cảo (2008)
4. Mục đích nghiên cứu
Luận văn nhằm làm sáng tỏ vấn đề sau:
- Tìm hiểu về cái tôi trữ tình trong thơ Lưu Quang Vũ qua những nguồn
cảm hứng tiêu biểu và nghệ thuật thể hiện nó để thấy được sự đóng góp của
một gương mặt thơ rất riêng, giàu cá tính.
- Góp phần làm sáng tỏ phong cách thơ Lưu Quang Vũ và những đóng
góp của thơ Lưu Quang Vũ trong nền thơ ca Việt Nam hiện đại.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn phối hợp vận dụng nhiều phương pháp nghiên cứu, trong đó
chủ yếu là sử dụng các phương pháp sau:
5.1. Phương pháp phân tích, thống kê, tổng hợp
5.2. Phương pháp hệ thống
10
5.3. Phương pháp so sánh đối chiếu
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, nội dung của luận văn được triển khai
trong 3 chương:
Chương 1. Từ nhận thức chung về cái tôi trữ tình đến việc tìm hiểu sự
nghiệp sáng tác của Lưu Quang Vũ
Chương 2. Cái tôi trữ tình trong thơ Lưu Quang Vũ qua những nguồn
cảm hứng tiêu biểu
Chương 3. Nghệ thuật thể hiện cái tôi trữ tình trong thơ Lưu Quang Vũ
11
Chương 1
TỪ NHẬN THỨC CHUNG VỀ CÁI TÔI TRỮ TÌNH ĐẾN VIỆC
TÌM HIỂU SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC CỦA LƯU QUANG VŨ
1.1. Khái niệm “cái tôi” và “cái tôi trữ tình”
1.1.1. Cái tôi
Cái tôi là một trong những khái niệm triết học cổ nhất đánh dấu ý thức
đầu tiên của con người về bản thể tồn tại của mình, từ đó nhận ra mình là một
con người khác với tự nhiên, là một cá thể độc lập khác với người khác.
Khái niệm cái tôi là một khái niệm có nội hàm rộng. Ở đây chúng tôi xin
dừng lại ở một số quan niệm triết học về cái tôi có liên quan trực tiếp hoặc
gần gũi với việc tìm hiểu cái tôi trữ tình.
Các nhà triết học duy tâm là những người đầu tiên chú ý đến cái tôi khi
đề cao ý thức, lý tính trong quan hệ vật chất - ý thức, chủ quan - khách quan,
cá nhân - xã hội.
Theo Đề Các (1596 - 1650), cái tôi thể hiện ra như một cái thuộc về thực
thể biết tư duy, như căn nguyên của nhận thức duy lí và do đó, cái tôi thể hiện
tính độc lập của mình với định nghĩa nổi tiếng: “tôi tư duy tức là tôi tồn tại”.
Theo Kant (1724 - 1804), cái tôi bao gồm hai phương diện: cái tôi với tư
cách chủ thể tư duy, chủ thể nhận thức thế giới và cái tôi với tư cách là cách là
khách thể của chính nhận thức.
Đồng thời Kant cũng nhấn mạnh tuyệt đối khả năng nhận thức của cái
tôi: “tính thống nhất của tự nhiên không phải ở trong tính vật chất của nó mà
ở trong tính thống nhất của chủ thể nhận thức, của cái tôi”.
Heghen (1770 - 1831) một mặt xem cái tôi như là sự tha hóa của “ý thức
tuyệt đối”, một mặt nhấn mạnh vai trò tuyệt đối của cái tôi: cái tôi như là
trung tâm của tồn tại, cái tôi có khả năng, khát vọng và sức mạnh để thể hiện
mình trong hiện thực.
12
Becxong (1858 - 1941) đã chú ý đến cái tôi thuần túy trong ý thức khi
nhấn mạnh đến đời sống bên trong cá nhân. Theo ông, trong con người có hai
cái tôi: đó là cái tôi bề mặt và cái tôi bề sâu. Trong đó, cái tôi bề mặt là các
quan hệ của con người đối với xã hội. Cái tôi bề sâu là phần sâu thẳm của ý
thức. Đó mới chính là đối tượng của nghệ thuật.
Các quan điểm duy tâm về cái tôi là khẳng định: cái tôi là phương diện
trung tâm của tinh thần con người, là cốt lõi của ý thức có khả năng chi phối
hoạt động và là sự khẳng định nhân cách con người trong thế giới. Tuy vậy,
các quan điểm trên đã tách cái tôi khỏi con người xã hội sinh động, chưa nhìn
thấy cơ sở lịch sử cụ thể và tính tích cực chủ động của cái tôi.
Đối lập với những quan điểm tuyệt đối hóa cái tôi cá nhân, tách nó ra
khỏi các mối quan hệ hiện thực xã hội, triết học Mác xác định giá trị con
người cá nhân từ bản thân con người với tư cách là chủ thể và khách thể của
các mối quan hệ xã hội. Theo Mác, mỗi cá nhân có ý nghĩa như là một bộ mặt
xã hội của con người, như là kết quả của việc xã hội hóa cá thể con người và
cá nhân cũng tìm thấy mình trong xã hội. Lí tưởng về giải phóng cá nhân của
triết học Mác là tự do cho mỗi cái tôi cá nhân trong tự do của tất cả mọi
người. Đồng thời vai trò của cái tôi cũng được khẳng định “cái tôi là trung
tâm tinh thần của con người, của cá tính con người có quan hệ tích cực đối
với thế giới và với chính bản thân mình”
Những quan niệm về cái tôi trong triết học và khoa học nhân văn hoặc
đóng vai trò phạm trù, hoặc có mối liên hệ chi phối, quen thuộc với cái tôi trữ
tình trong thơ ở các thời đại.
Vậy cái tôi trữ tình sẽ được hiểu như thế nào?
1.1.2. Cái tôi trữ tình
Cái tôi trữ tình là sự thể hiện một cách nhận thức và cảm xúc đối với thế
giới và con người thông qua lăng kính cá nhân của chủ thể và thông qua việc
13
tổ chức các phương tiện của thơ trữ tình, tạo ra một thế giới tinh thần riêng
biệt độc đáo mang tính thẩm mĩ, nhằm truyền đạt tinh thần đến người đọc.
Bản chất của cái tôi trữ tình là một khái niệm tổng hòa nhiều yếu tố hội
tụ theo quy luật nghệ thuật, bao gồm cả ba phương diện: bản chất chủ quan cá
nhân, đây là mối quan hệ giữa tác giả và cái tôi trữ tình được thể hiện trong
tác phẩm; bản chất xã hội của cái tôi trữ tình là mối quan hệ giữa cái tôi trữ
tình và cái ta cộng đồng; bản chất thẩm mĩ của cái tôi trữ tình là trung tâm
sáng tạo và tổ chức văn bản.
Cả ba phương diện: cá nhân, xã hội và thẩm mĩ đều nằm trong hình thức
thể loại trữ tình.
Cái tôi trữ tình khác về chất so với cái tôi nhà thơ. Đó là sự khác nhau
giữa cuộc đời và nghệ thuật, giữa chủ nghĩa tự nhiên và chủ nghĩa hiện thực,
giữa nguyên mẫu và điển hình, giữa “gốc rễ” và những “cành lá” nảy nở sinh
động của nó. Cái tôi trữ tình không chỉ là cái tôi nhà thơ, nó còn là cái tôi thứ
hai hoặc cái tôi được khách thể hóa, được thăng hoa trong nghệ thuật và bằng
nghệ thuật. Nó có quan hệ chặt chẽ với cái tôi nhà thơ. Nhưng từ cái tôi nhà
thơ đến cái tôi trữ tình còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác.
Cái tôi trữ tình chính là trung tâm sáng tạo và tổ chức văn bản trữ tình.
Nếu quan niệm một tác phẩm trữ tình là một hệ thống với các cấp độ, các yếu
tố thì có thể nói mọi thành tố cấu tạo nên bài thơ, từ các biện pháp tu từ cho
đến thể thơ, nhịp và vần điệu... đều nằm trong ảnh hưởng của một trung tâm
quy chiếu là cái tôi trữ tình. Đó cũng là cơ sở để có thể nói đến các loại hình
với tư cách những đặc điểm hình thức tiêu biểu tương ứng với các kiểu cái tôi
trữ tình.
Văn chương không chỉ là bức tranh đời sống mà còn là bức chân dung
tinh thần của chủ thể sáng tạo. Chủ thể không chỉ là người sáng tạo ra những
giá trị tinh thần mà còn là đối tượng miêu tả biểu hiện, chủ thể không chỉ
14
được xem như là một yếu tố tạo nên nội dung tác phẩm mà còn được xem như
là một phương tiện bộc lộ nội dung của tác phẩm, là một thành tố của thế giới
nghệ thuật do tác phẩm tạo ra. Ở những nhà thơ có cá tính sáng tạo độc đáo,
dấu ấn của chủ thể còn in đậm trong từng từ, từng hình ảnh, từng dòng thơ,
bài thơ...
Vấn đề cần giới thuyết ở đây là mối quan hệ giữa chủ thể với hình tượng
nhân vật trữ tình, là những hình thức biểu hiện của chủ thể với tư cách là hình
tượng trung tâm của tác phẩm thơ trữ tình. Để thấy rõ mối quan hệ này, cần
thiết phải phân biệt chủ thể và cái tôi, cái tôi của nhà thơ và cái tôi trữ tình
trong tác phẩm. Chủ thể là một phạm trù được xem xét trong mối quan hệ với
khách thể, là phạm trù đối lập với khách thể ở tính tích cực, thể hiện ở ý thức,
ý chí và khả năng nhận thức, chiếm lĩnh hiện thực khách quan. Cái tôi là yếu
tố của chủ thể làm cho chủ thể ý thức được chính mình, là chức năng tự nhận
thức của chủ thể.
Cái tôi của nhà thơ có mối quan hệ trực tiếp và thống nhất với cái tôi trữ
tình trong thơ. Nhà thơ là nhân vật chính, là hình bóng trung tâm, là cái tôi
bao quát trong toàn bộ sáng tác. Những sự kiện, hành động, tâm tình và kí ức
trong cuộc đời riêng cũng in đậm nét trong thơ. Cái tôi của nhà thơ có lúc thể
hiện trực tiếp qua những cảnh ngộ riêng, trực tiếp giãi bày những nỗi niềm
thầm kín. Cái tôi của nhà thơ còn hiện diện qua các cách nhìn, cách nghĩ, qua
tình cảm thái độ trước thế giới. Tuy nhiên, cái tôi trữ tình trong thơ và cái tôi
của nhà thơ không hề đồng nhất. Cái tôi của nhà thơ ngoài đời thuộc phạm trù
xã hội học, còn cái tôi trữ tình trong thơ thuộc phạm trù nghệ thuật. Cái tôi trữ
tình là cái tôi nhà thơ đã được nghệ thuật hóa và trở thành một yếu tố nghệ
thuật phổ quát trong thơ trữ tình, là một thành tố trong thế giới nghệ thuật của
tác phẩm.
15
1.2. Các hình thức biểu hiện cái tôi trữ tình trong văn học
Lịch sử phát triển của thơ ca là lịch sử phát triển của cái tôi trữ tình, là sự
thay đổi mô hình quan hệ giữa cái tôi trữ tình và đời sống. Cái tôi trữ tình là
một hiện tượng lịch sử nên nó có những hình thái lịch sử.
Trong quá trình vận động và phát triển của lịch sử xã hội, thời đại, lịch
sử của cá thể, ý thức về cái tôi trữ tình trong lịch sử văn học cũng có sự khác nhau.
1.2.1. Cái tôi trữ tình trong văn học dân gian
Khi nói đến cái tôi trữ tình trong văn học dân gian thì có lẽ chiếm ưu thế
nhất vẫn là ở thể loại ca dao - dân ca. Cái tôi trữ tình trong ca dao - dân ca là
cái tôi tìm thấy tiếng nói chung của tập thể. Cái tôi ở đây không bộc lộ như
một cá nhân riêng biệt mà có thể chìm đi, biểu hiện cái tôi xã hội, cái tôi tập thể.
Cảm hứng của tác giả dân gian bắt nguồn từ nhu cầu được chia sẻ, giao
hưởng và đồng vọng trong những cảnh ngộ tương đồng. Nhân vật trữ tình
trong văn học dân gian chủ yếu là người dân lao động, họ có thể là những
người đang dãi nắng dầm mưa “trên đồng cạn, dưới đồng sâu”, là kẻ đang
nhọc nhằn lên đồng xuống truông... và không gian họ xuất hiện cũng gắn liền
với không gian lao động sản xuất: bến nước con đò, bãi dâu đồng cỏ, vườn
chè ao cá...
Cái tôi trữ tình dân gian về cơ bản là cái tôi phi cá thể hóa. Hình thức của
loại hình văn học dân gian là diễn xướng và truyền miệng. Thời gian và
không gian mang tính ước lệ, làm cho thời gian cá thể hóa của cái tôi tác giả
mờ nhạt hẳn đi. Không gian có thể thay đổi, chẳng hạn từ địa danh này sang
địa danh khác vì thế làm mất đi cá tính cụ thể của một hoàn cảnh cụ thể. Diện
mạo duy nhất của cái tôi dân gian là cái chung.
1.2.2. Cái tôi trữ tình trong văn học cổ điển
Trong văn học cổ nói chung, bản chất con người bắt nguồn từ quan hệ
cộng đồng, giá trị cá nhân nằm trong giá trị tập thể. Văn học chủ yếu phát
16
ngôn trên tư cách siêu cá nhân, với những vấn đề của gia đình, dòng họ, giai
cấp và của dân tộc. Điều đó tạo nên kiểu nhà thơ cổ điển “phi ngã”.
Trong văn học trung đại ý thức về cá nhân cá tính có xuất hiện nhưng tồn
tại trong những quy tắc luật lệ khuôn mẫu mà ta gọi là tính quy phạm. Cái tôi
trữ tình chủ yếu là cái tôi vũ trụ. Cái tôi cá tính đã khách thể hóa vũ trụ. Mỗi
sự việc, mỗi khung cảnh đều mang một ý nghĩa triết lí về quan hệ giữa con
người và vũ trụ. Do không tách mình khỏi vũ trụ, để từ những bí ẩn của vũ trụ
gián tiếp bộc lộ những bí ẩn của tâm hồn, vì thế biểu hiện tình cảm xã hội là
gián tiếp, kín đáo. Cái nhà thơ luôn đi tìm là sự hài hòa giữa cái hữu hạn và
vô cùng, giữa nhất thời và vĩnh cửu, giữa quá khứ và thực tại, giữa cái thực và
cái hư, giữa cái động và cái tĩnh.
Về sau cái tôi xa dần tính phi ngã quy phạm để bộc lộ tính chất tự nhiên.
Đó là sự xuất hiện trong văn học trung đại Việt Nam những Hồ Xuân Hương,
Nguyễn Du, Cao Bá Quát... con người đã đối diện với chính mình, nói về mình.
1.2.3. Cái tôi trữ tình trong thơ lãng mạn
Bản chất của thơ lãng mạn là tiếng nói cá nhân. Kiểu nhà thơ lãng mạn
song hành với sự tự ý thức của cá nhân như là một cá thể độc đáo, riêng biệt,
nó không chống lại cái nhìn duy lí của chủ nghĩa cổ điển. Cái tôi cũng có khi
là cái tôi cá nhân tự biểu hiện, khép kín và cô đơn. Chất lãng mạn trong thơ
lãng mạn nằm ở cách cảm, cách nghĩ, sự biểu hiện thế giới và con người một
cách đặc thù. Đó chính là cái tôi nằm ở trung tâm cảm nhận, làm nguyên tắc
thế giới quan.
Thơ lãng mạn là thơ của tâm hồn, tâm hồn ấy đã thoát ra khỏi tính quy
phạm và nó đã bộc lộ hết mình, để “tâm hồn tiếp xúc trực tiếp với ngoại giới”.
Đồng thời thơ lãng mạn cũng lấy tâm hồn làm trung tâm, nó không ưa cõi
thực tầm thường mà thích những cái gì cá biệt khác thường, cái phi thường.
Cái tôi trữ tình vượt lên hoàn cảnh bằng những tưởng tượng khác thường,
17
bằng mộng ảo, hoài niệm, bằng tôn giáo, lịch sử... chỉ với mục đích là tự
khẳng định mình, khẳng định sự tự do của mình. Tuy thế đã là một con người
tự do thì sẽ tồn tại những mặt mạnh mặt yếu, vừa có sự kiêu hãnh nhưng cũng
không tránh khỏi sự yếu đuối, bơ vơ, buồn rầu, cô đơn, làm cho tâm hồn vừa
phong phú, phức tạp và cũng rất tinh tế trong sáng tạo nghệ thuật.
1.2.4. Cái tôi trữ tình trong thơ cách mạng
Gắn liền với hoàn cảnh và yêu cầu lịch sử, văn học lúc này đặt vấn đề
dân tộc lên trên tất cả. Vì thế theo dòng lịch sử, cái tôi trữ tình bộc lộ chủ yếu
trên các vấn đề dân tộc, lịch sử.
Các nhà thơ cách mạng luôn đứng trong những sự kiện lớn của đất
nước, với tư thế dân tộc, thời đại, giai cấp. Họ hiện hữu với trách nhiệm trước
cuộc đời hiện tại khẳng định niềm tin vào tương lai của dân tộc. Cái tôi lúc
này mang một sinh khí mới rất mạnh mẽ và kiêu hãnh. Đây là giai đoạn các
nhà thơ từ bỏ cái tôi cá nhân, để cái riêng tư hòa vào cái chung dân tộc.
Thơ cách mạng là thơ của cái tôi mới, cái tôi cộng đồng. Chủ thể không
còn là cái tôi riêng mà là một phạm trù đa thức. Đó là một cá nhân không lặp
lại hoặc là một nhóm người cùng chung ý chí, nguyện vọng có thể là toàn bộ
xã hội nói chung. Trong cái tôi mỗi người có cả một hệ thống cái tôi khác
nhau, trong quá trình tự nhận thức trước cuộc sống, cái tôi nào đó được lựa
chọn, vượt lên tự khẳng định. Cái tôi lúc này là cái tôi công dân xã hội, hướng
về tình cảm chung của cộng đồng, cái tôi hòa hợp với cái ta trong cộng đồng
mà khi giao tiếp thường được xưng là ta, chúng ta. Nó khác với cái tôi cá
nhân phân biệt người này với người khác. Cái tôi khẳng định sự chung sức
chung lòng cho sự nghiệp đánh giặc cứu nước.
1.3. Những thành tựu trong sự nghiệp sáng tác của Lưu Quang Vũ
Lưu Quang Vũ sinh ngày 17 tháng 4 năm 1948, tại Phú Thọ. Quê gốc
của anh ở Đà Nẵng. Suốt cuộc đời Lưu Quang Vũ sống và gắn bó với Hà Nội.
18
Là con đầu lòng của nhà thơ, nhà viết kịch Lưu Quang Thuận, Lưu Quang Vũ
chịu ảnh hưởng tích cực của người cha tài hoa. Ở con người ấy, năng khiếu
hội họa và cốt cách của một thi sĩ đã sớm được bộc lộ.
Năm mười ba tuổi, cậu bé Vũ đã giành được giải thưởng của thành phố
về cả văn và họa.
Lớn lên, Lưu Quang Vũ nhập ngũ và nhanh chóng được biết đến với tư
cách là một nhà thơ trẻ tài năng khi mới 20 tuổi qua phần thơ Hương cây in
chung với Bằng Việt trong tập Hương cây - Bếp lửa.
Năm 1970, Lưu Quang Vũ xuất ngũ và tiếp tục viết truyện, làm thơ trong
khi gặp nhiều trắc trở trong cuộc sống.
Năm 1973, đánh dấu một sự kiện quan trọng cuộc đời Lưu Quang Vũ,
gắn bó với Xuân Quỳnh, anh không chỉ có được một người bạn đời mà còn có
được một người bạn văn, cùng nhau vượt qua những năm tháng gian khổ, lận
đận.
Năm 1978, Lưu Quang Vũ làm biên tập ở Tạp chí sân khấu, anh viết
báo, và cuối năm 1979 cuốn Diễn viên và sân khấu ra đời. Cũng năm này vở
kịch đầu tay Sống mãi tuổi 17 của anh ra mắt công chúng và được đánh giá
cao.
Ngày 29 tháng 8 năm 1988, Lưu Quang Vũ đột ngột qua đời trong một
tai nạn giao thông cùng vợ và con trai út. Anh ra đi khi tuổi đời vừa mới 40.
Thế nhưng Lưu Quang Vũ đã kịp để lại cho đời rất nhiều tác phẩm có giá trị
nghệ thuật trên những thể loại mà anh đã tham gia sáng tác: thơ, truyện ngắn,
kịch. Với những đóng góp của mình, năm 2000 Lưu Quang Vũ được tặng giải
thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.
Cho đến nay, Lưu Quang Vũ luôn giành được sự yêu mến của bạn đọc và
những người hâm mộ. Có lẽ cũng do bởi tài năng và những đóng góp lớn của
anh cho sự nghiệp văn học nghệ thuật nước nhà.
19
Có được điều này không phải là một sự may mắn ngẫu nhiên mà đó là
kết quả của quá trình kết hợp nhiều yếu tố tạo nên môi trường thuận lợi cho
hoạt động nghệ thuật. Có thể nói, ở Lưu Quang Vũ ta luôn nhìn thấy một
ngọn lửa say mê nghệ thuật đến miệt mài, một ý chí, nghị lực và lòng ham
học hỏi, lối làm việc đầy nhiệt tình, trách nhiệm. Cộng vào đó là sự định
hướng đúng đắn từ người cha: nhà thơ, nhà viết kịch Lưu Quang Thuận.
Nhưng sẽ là thiếu sót nếu trong những thành công của anh mà chúng ta không
nhắc đến người bạn đời, bạn nghề: nữ sĩ Xuân Quỳnh. Năm 1973, Lưu Quang
Vũ kết hôn với Xuân Quỳnh - đánh dấu một sự kiện quan trọng trong cuộc
đời Lưu Quang Vũ. Gắn bó cuộc đời mình với Xuân Quỳnh, anh không chỉ
gắn bó với một người bạn đời mà còn là một người bạn thơ, cùng nhau vượt
qua khó khăn lận đận và xác định hướng đi đúng đắn cho cuộc đời mình.
Chính sự động viên, thấu hiểu, sự chia sẻ hi sinh của người vợ đã giúp cho
Lưu Quang Vũ yên tâm, tự tin vững bước trên con đường nghệ thuật nhiều
vinh quang nhưng cũng lắm chông gai. Với cảm xúc, tài năng và trí tuệ của
mình, nhà thơ, nhà viết kịch Lưu Quang Vũ đã được cổ vũ nhiệt thành bằng
những tràng vỗ tay tán thưởng, ngợi ca. Bây giờ, chúng ta và tin chắc cả
những thế hệ sau này nữa đều luôn nhớ đến Lưu Quang Vũ bởi tài năng, sự
lao động miệt mài và những đóng góp của anh ở cả thơ, truyện ngắn và kịch.
Năm 17 tuổi, Lưu Quang Vũ nhập ngũ, được biên chế về binh chủng
phòng không không quân. Đây là giai đoạn có nhiều thay đổi trong cuộc đời
anh. Anh sáng tác rất nhiều thơ. Chùm thơ đầu tay: Gửi tới các anh, Lá bưởi
lá chanh, Đêm hành quân được in trên tạp chí Văn nghệ quân đội. Và đặc
biệt, bằng sự xuất hiện trên văn đàn với phần thơ Hương cây in chung với
Bằng Việt trong tập Hương cây - Bếp lửa khi anh tròn hai mươi tuổi thì Lưu
Quang Vũ nhanh chóng được biết đến với tư cách là một nhà thơ trẻ tài năng
đầy triển vọng.
20