CHUYÊN ĐỀ CẢI CÁCH CỦA LÊ THÁNH TÔNG – NHÂN TỐ QUYẾT ĐỊNH DẪN TỚI SỰ HƯNG THỊNH CỦA TRIỀU ĐẠI LÊ SƠ
CHUYÊN ĐỀ: CẢI CÁCH CỦA LÊ THÁNH TÔNG – NHÂN TỐ QUYẾT
ĐỊNH DẪN TỚI SỰ HƯNG THỊNH CỦA TRIỀU ĐẠI LÊ SƠ
Người thực hiện: Giáo viên Doãn Thị Hồng Nhung, Vũ Thị Dung
Trường THPT Chuyên Hạ Long
MỞ ĐẦU
Cải cách có nghĩa là đổi mới cho tiến bộ hơn, cho phù hợp với sự phát
triển chung của xã hội mà không đụng chạm tới nền tảng của chế độ hiện hành.
Cải cách là một yêu cầu tất yếu của đất nước trước những thay đổi của hoàn
cảnh lịch sử.
Trong lịch sử phong kiến Việt Nam đã từng diễn ra xu hướng cải cách đất
nước mỗi khi xã tắc lâm vào khủng hoảng, trì trệ, tiêu biểu là cuộc cải cách của
Khúc Hạo, Hồ Quý Ly, Lê Thánh Tông, Quang Trung, Minh Mạng... Trong
những cuộc cải cách đó, có một cuộc cải cách được phần đông đánh giá là toàn
diện trên tất cả các mặt, làm cho bộ máy chính quyền vững mạnh, hệ thống
hành chính thống nhất trong cả nước, kinh tế ổn định, văn hóa mở mang, đưa
đất nước phát triển đến đỉnh cao của chế độ phong kiến. Đó chính là cuộc cải
cách của Lê Thánh Tông.
Trong 38 năm trị vì đất nước (1460 – 1497), Lê Thánh Tông đã làm được
rất nhiều cho đất nước, cho nhân dân, xứng đáng trở thành một trong những vị
vua sáng của dân tộc. Cuộc cải cách mà ông tiến hành diễn ra trong hoàn cảnh
lịch sử nào? Nội dung cuộc cải cách ra sao? Thành công mà cuộc cải cách đã in
dấu trong lịch sử dân tộc thể hiện như thế nào? Đó là những vấn đề mà chúng
tôi quan tâm.
Do đó, việc tìm hiểu cải cách của Lê Thánh Tông sẽ làm sáng tỏ phần
nào quá trình phát triển đạt đến đỉnh cao của chế độ phong kiến Việt Nam.
Ngoài ra, việc tìm hiểu cải cách của Lê Thánh Tông còn cung cấp thêm cho
chúng tôi những kiến thức lịch sử phong kiến Việt Nam thời Lê Sơ, làm tư liệu
để dạy bài 32: Lịch sử ở thế kỉ XV – thời Lê Sơ (Chương trình Lịch sử 10 Nâng
cao). Bên cạnh đó, việc hiểu rõ cuộc cuộc cải cách này giúp chúng ta hiểu hơn
về công cuộc đổi mới của đất nước, rút ra bài học quý báu cho sự nghiệp xây
dựng công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước trong giai đoạn hiện nay. Vì vậy,
việc thực hiện đề tài sẽ góp phần củng cố kiến thức giúp giáo viên chúng tôi
giảng dạy tốt hơn.
Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi quyết định lựa chọn đề tài “Cải
cách của Lê Thánh Tông – nhân tố quyết định dẫn tới sự hưng thịnh của triều
đại Lê sơ thế kỉ XV” làm đề tài chuyên đề giảng dạy của mình.
NỘI DUNG
I. Hoàn cảnh lịch sử
1. Thuận lợi
Đầu thế kỉ XV do không đoàn kết được nhân dân, nhà Hồ chịu sự thất bại
trước cuộc xâm lược của nhà Minh. Vì vậy từ 1407, Đại Việt lại rơi vào ách đô
hộ tàn bạo của nhà Minh. Hàng loạt cuộc khởi nghĩa bùng nổ ở miền ngược
cũng như miền xuôi nhưng đều thất bại. Từ năm 1417 – 1428 khởi nghĩa Lam
Sơn dưới sự lãnh đạo của Lê Lợi và Nguyễn Trãi bùng nổ ở Thanh Hóa và
giành được thắng lợi. Sau thắng lợi của khởi nghĩa Lam Sơn, đầu năm 1428 Lê
Lợi lên ngôi hoàng đế, sáng lập nhà Lê, đặt lại tên nước là Đại Việt. Trải qua
các đời vua đầu nhà Lê sơ: Thái Tổ (1428 – 1433), Thái Tông (1433 – 1442),
Nhân Tông (1442 – 1459), đất nước đang dần được khôi phục và bước vào giai
đoạn phát triển trên tất cả các lĩnh vực.
Về chính trị, đó là sự ổn định, chính quyền trung ương ngày càng mang
tính chất tập trung. Ngay từ năm 1427, khi còn bao vây Đông Đô, Lê Lợi đã
bước đầu xây dựng bộ máy chính quyền. Đến khi đất nước được giải phóng,
nhiệm vụ quan trọng đặt ra cho nhà Lê là xây dựng chính quyền mới. Về cơ bản
từ đời vua Thái Tổ đến đời vua Nhân Tông, nhờ nhận được sự ủng hộ, tin tưởng
của nhân dân trước một triều đại mới – triều đại đã đánh bại quân xâm lược
Minh, giành lại độc lập, chủ quyền cho dân tộc mà nhiệm vụ trên được thực
hiện một cách thuận lợi. Tuy các triều vua đầu nhà Lê vẫn dựa vào quy chế của
các triều đại Lý, Trần nhưng bộ máy nhà nước đó đã có một bước tiến về mức
độ tập trung chính quyền có ý nghĩa đặt nền móng vững chắc cho cả một triều
đại và nền độc lập phồn vinh của quốc gia Đại Việt trong 4 thế kỉ, tạo tiền đề
cho những bước đột phá giai đoạn sau. Bên cạnh đó, để củng cố tình hình chính
trị, ngay sau khi lên ngôi vua, Lê Lợi đã cùng các đại thần bàn định một số luật
lệ và lo đến lập pháp. Việc ban hành pháp luật đã góp phần ổn định chính trị, cơ
sở để bộ luật Hồng Đức của Lê Thánh Tông hình thành và hoàn chỉnh hơn.
Về kinh tế, nhà Lê sơ đã có sự phát triển nhanh chóng. Đất nước giải
phóng, chính trị bước đầu đi vào ổn định là những điều kiện cơ bản quan trọng
giúp nền kinh tế nhà Lê sơ phát triển. Chính sách trọng nông và những biện
pháp tích cực đối với nông nghiệp của nhà nước cùng với sự lao động sáng tạo,
cần cù của nhân dân đã làm cho nền nông nghiệp nhanh chóng được phục hồi và
phát triển, đời sống nhân dân được ổn định. Bên cạnh đó, thủ công nghiệp và
thương nghiệp cũng có điều kiện phát triển. Sau này, nhân dân còn nhớ lại cuộc
sống thời ấy bằng sự ca ngợi:
“Đời vua Thái Tổ, Thái Tông
Thóc lúa đầy đồng, trâu chẳng buồn ăn”
Về văn hóa, giáo dục, giai đoạn đầu của nhà Lê sơ đạt nhiều thành tựu.
Đó là sự thịnh đạt của nền giáo dục - khoa cử, là sự phát triển của văn học, nghệ
thuật.
Việc củng cố đất nước trên cơ sở tập quyền và bước đầu đạt được nhiều
thành tựu trên tất cả các lĩnh vực là những điều kiện thuận lợi để vua Lê Thánh
Tông tiếp nối các tiên đế trong sự nghiệp đưa Đại Việt phát triển đến đỉnh cao.
2. Khó khăn
Bên cạnh việc được thừa hưởng những lợi thế đặc biệt của các tiên đế nhà
Lê thì Lê Thánh Tông cũng phải giải quyết những khó khăn mà các triều đại
trước chưa thực hiện được ngay sau khi ông lên ngôi. Đó là:
* Chế độ chính trị bước đầu suy thoái, thiếu ổn định
- Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý nhà nước phân tán, quyền lực của nhà
nước chính quyền trung ương bị hạn chế
Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn (1418 - 1427) thắng lợi. Năm 1428, Lê Lợi
lên ngôi Hoàng đế, bắt tay vào xây dựng chính quyền mới theo thiết chế cũ
của nhà Trần.
Đứng đầu triều đình là vua. Sau vua là chức Tả, Hữu tướng quốc kiểm
hiệu Bình chương quân quốc trọng sự, rồi đến các chức Tam Tư, Tam Thái,
Tam thiếu. Chức Thiếu úy được Lê Thái Tông đặt từ lúc còn khởi nghĩa, sau
khi dẹp yên giặc Minh mới đặt Thái Úy, cùng với chức Thái, ba chức Thiếu
đều là trọng trách của đại thần. Các trọng chức của đại thần văn võ chỉ trao
cho các thân thuộc nhà vua và bầy tôi có công. Dưới là hai ngạch văn ban, võ
ban. Văn ban có chức Đại hành khiển, đặt theo quan chế của nhà Trần. Dưới
Đại hành khiển là Thượng thư đứng đầu bộ, bấy giờ mới chỉ có ba bộ: Bộ Lại,
Bộ Lễ và Bộ Hộ. Bên cạnh đó có một số cơ quan chuyên trách như: Nội mật
viện (hoặc Khu mật viện), Ngũ hình viện, Bí thử giám, Ngự sử đài, Hàn lâm
viện, Quốc tử giám…Võ ban có các chức Đại Tổng quản, Đại đô đốc; Đô tổng
quản. Những chức này chỉ huy quân thường trực kinh thành và vệ quân ở các
đạo, dưới có các chức võ tướng cao cấp khác.
Ở địa phương, năm 1428, Thái Tổ chia lại nước làm 5 đạo: Đông, Tây,
Nam, Bắc (tương ứng với Bắc Bộ ngày nay) và Hải Tây (từ Thanh Hóa đến
Thuận Hóa). Mỗi đạo do Hành khiển đứng đầu. Dưới đạo là Lộ do An Nam
phủ xứ đứng đầu như thời Trần. Các lộ về mặt quy mô không đồng đều. Dưới
Lộ là huyện, châu, xã. Đơn vị hành chính cơ sở là xã, gồm 3 loại: xã lớn 100
người trở lên, xã vừa 50 người trở lên và xã nhỏ 10 người trở lên.
Nhìn chung, tổ chức bộ máy nhà nước phong kiến thời Lê Thái Tổ chủ
yếu vẫn dựa vào quy chế tổ chức của các triều đại trước. Thiết chế chính trị
như trên còn chưa chặt chẽ, chưa hoàn chỉnh, mang tính phân tán. Nhược điểm
này đã bộc lộ ngay từ nửa sau thế kỷ XIV. Như vậy, trong hoàn cảnh mới,
thiết chế chính trị đó vẫn tiếp tục được duy trì đã không còn phù hợp với yêu
cầu phát triển của đất nước, của xu thế thời đại nên cải cách tất yếu phải diễn
ra. Và Lê Thánh Tông đã nhận thức được điều này.
* Chính quyền trung ương chưa vững mạnh, nội bộ vương triều mâu
thuẫn
Sau khi vua Lê Thái Tổ qua đời, các vua kế vị thường còn ít tuổi. Thái
Tông lên ngôi lúc 10 tuổi, Nhân Tông lên ngôi lúc 2 tuổi, không đủ khả năng
kiềm chế mâu thuẫn nội bộ, không chấm dứt được tình trạng giết hại nhau. Các
công thần lần lượt bị giết trong đó phải nói đến vụ án Lệ Chi Viên của Nguyễn
Trãi. Tình trạng quan lại lộng quyền, tham nhũng, ăn chơi xa hoa bộc lộ khá
phổ biến. Thực trạng đó càng làm cho nhà nước tập quyền suy yếu. Để xây
dựng một nhà nước quân chủ trung ương tập quyền vững mạnh đòi hỏi phải
tiến hành cải cách về thiết chế chính trị, cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước và
hành chính từ trung ương đến địa phương, giải quyết mâu thuẫn giữa tập trung
và phân tán.
* Cơ cấu kinh tế - xã hội phát triển chưa vững chắc
Suốt một thời gian dài từ thế kỉ X đến thế kỉ XV, xã hội phong kiến
nước ta luôn chịu sự tác động và ít nhiều mang đặc trưng của phương thức sản
xuất châu Á, trong đó có đặc trưng về ruộng đất công làng xã. Các làng xã
mang nặng tính tự trị, tự quản, vẫn trực tiếp nắm quyền quản lý và phân chia
ruộng đất công theo luật tục của làng, mặc dù phải chịu dưới quyền sở hữu của
nhà nước. Nhà nước Lê sơ từ Lê Thái Tổ đến Lê Nghi Dân (1428 -1460), tuy
đã thực hiện được một số biện pháp và chính sách nhằm xác lập quyền sở hữu
tối cao của Nhà nước về ruộng đất vẫn chưa hoàn toàn được xác lập. Quan hệ
sản xuất địa chủ - nông dân lệ thuộc vẫn chưa trở thành quan hệ kinh tế chủ
đạo thống trị trong xã hội. Do đó, chế độ quân chủ quan liêu vẫn chưa có cơ sở
vững chắc để được xác lập. Để hoàn thành quá trình phong kiến hóa, để xây
dựng một nhà nước tập quyền mạnh đặt cơ sở vững chắc cho sự thống nhất
quốc gia thì rõ ràng phải tiến hành những chính sách và biện pháp cải cách
không chỉ trong lĩnh vực chính trị, chính quyền mà cả trong lĩnh vực kinh tế,
xã hội.
Như vậy, đến năm 1460, Lê Thánh Tông lên ngôi kế thừa những thành
tựu của triều đại trước, có những điều kiện mới để xây dựng đất nước, song
cũng đứng trước những khó khăn, thử thách và có nguy cơ đưa xã hội đi vào
khủng hoảng như cuối thời nhà Trần. Dựa vào điều kiện thuận lợi và khó khăn
của đất nước ở thế kỉ XV, có thế nói với tư chất thông minh, quyết đoán, Lê
Thành Tông đã lấy đó là cơ sở để đưa ra và thực hiện những cải cách đúng đắn
trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa - giáo dục nhằm đưa đất
nước Đại Việt đạt được sự phát triển rực rỡ về mọi mặt.
II. Nội dung cải cách
1. Cải cách hành chính
Vào những năm 60 khi đất nước đã ổn định, vua Lê Thánh Tông khi mới
lên ngôi đã tiến hành một cuộc cải cách hành chính lớn từ trung ương đến địa
phương nhằm “cốt để cho lớn nhỏ cùng ràng buộc nhau, nặng nhẹ cùng kiềm
chế nhau, uy quyền không bị lạm dụng, lẽ phải không bị lung lay khiến mọi
người có thói quen theo đạo, giữ phép không có lầm lỗi làm trái nghĩa, phàm
hình, để theo trọn cái trí của Thái Tổ, Thái Tông ta mà giữ được trị an lâu dài”.
Lê Thánh Tông trước tiên bãi bỏ các quan chức và cơ quan trung gian
giữa vua và bộ phận thừa hành, đó là Thượng thư sảnh, Môn hạ sảnh, Khu mật
viện cùng các viên quan cao cấp nhất như Tướng quốc (Tể tướng), Đại hành
khiển, tả, hữu Bộc xạ… Vua trực tiếp nắm quyền kể cả quyển tổng chỉ huy quân
đội, chỉ đạo mọi công việc trọng yếu và làm việc trực tiếp với các cơ quan thừa
hành. Giúp vua bàn bạc và chỉ đạo công việc khi cần thiết có các đại thần như
Thái sư, Thái phó, Thái bảo, Thái Úy, Thiếu sư, Thiếu bảo…
Tiếp đến, tách 6 bộ Lại, Lễ, Binh, Hình, Hộ, Công ra khỏi Thượng thư
sảnh lập thành 6 cơ quan riêng biệt phụ trách các mọi mặt công việc của triều
đình. Đứng đầu các bộ là chức Thượng thư chịu trách nhiệm trực tiếp với vua về
hoạt động của bộ mình phụ trách.
Lê Thánh Tông rất đề cao công tác thanh tra, giám sát quan lại. Hệ thống
tổ chức thanh tra, giám sát quan lại được tổ chức khá chặt chẽ từ triều đình đến
các địa phương. Ở trung ương, để tăng cường công tác thanh tra, giám sát hoạt
động các quan lại ở 6 Bộ, ngoài Ngự sự đài đã có từ thời Trần, Lê Thánh Tông
đặt thêm 6 Khoa, mỗi Khoa chịu trách nhiệm theo dõi, giám sát hoạt động của
quan lại Bộ đó: “Bộ Lễ nghi thức không hợp thì Lễ khoa được phép đàn hặc. Bộ
Hộ thì có Hộ khoa giúp đỡ, khoa hình xét lại sự thẩm đoán của bộ Hình”…
Ở địa phương, năm 1466, Lê Thánh Tông bãi bỏ các đơn vị trung gian
lớn là 5 đạo, thống nhất cả nước chia làm 12 đạo thừa tuyên (Thanh Hóa, Nghệ
An, Thuận Hóa, Thiên Trường, Nam Sách, Quốc Oai, Bắc Giang, An Bang,
Hưng Hóa, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Lạng Sơn) và 1 phủ Trung Đô. Năm
1471, vua Lê Thánh Tông đặt thêm đạo thừa tuyên thứ 13 là Quảng Nam; dưới
đạo thừa tuyên là phủ, châu, huyện, xã. Bỏ đơn vị trấn và lộ, đổi lộ làm phủ,
trấn làm châu. Ở mỗi đạo thừa tuyên có Tam ti chuyên trách: Đô Tồng binh sứ
ty (Đô ty) phụ trách về quân sự Thừa tuyên sứ ti (Thừa ti) trông coi mặt dân
sự; Hiến sát sứ ti (Hiến ti) phụ trách công việc thanh tra, giám sát các quan lại
địa phương mình, thăm nom tình hình đời sống nhân dân. Các ti chịu trách
nhiệm trực tiếp trước triều đình theo hệ thống dọc.
Ngoài ra còn có Giám sát ngự sử ở 13 đạo, các cơ quan hà đê, khuyến
nông ti chuyên chăm lo đê điều và sản xuất nông nghiệp.
Dưới đạo là phủ. Các phủ có Tri phủ đứng đầu; các huyện, châu có Tri
huyện, Tri châu. Ở xã, chức xã quan được đổi gọi là Xã trưởng.
Đơn vị hành chính xã cũng được Nhà nước quy định chặt chẽ và cụ thể:
Xã lớn (đại xã) có từ 500 hộ dân trở lên được bầu 5 xã trưởng; trung xã có từ
300 hộ đến dưới 500 hộ có 4 xã trưởng; xã nhỏ (tiểu xã) có 100 đến 300 hộ có 2
xã trưởng, dưới 60 hộ có 1 xã trưởng. Điều đó thể hiện vai trò của Nhà nước
cũng như mối quan hệ gắn kết giữa trung ương và địa phương.
Ở miền thượng du, các bản mường vẫn được giao cho tù trưởng, lang đạo
cai quản như cũ. Riêng mạn biên giới phía Bắc, nhà Lê cử thêm một số tướng
giỏi người miền xuôi lên trấn thị và biến thành “phiên thần” đời đời nối nhau
cai quản địa phương.
Như vậy hệ thống hành chính thời Lê Thánh Tông rất gọn gàng, rành
mạch, nhất quán, không chồng chéo lẫn nhau, đảm bảo tính thống nhất trong
chính quyền từ trên xuống. Nếu so sánh bộ máy hành chính với các triều vua
Lý, Trần thì hệ thống hành chính quốc gia thời Lê sơ đặc biệt là ở thời Lê
Thánh Tông đã thể hiện một bước tiến cơ bản – đạt đến đỉnh cao mô hình Nhà
nước quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền. Mọi quyền hành đều tập trung
trong tay vua. Hệ thống các cơ quan hành chính từ trung ương đến địa phương
được xếp đặt rõ ràng, có phân công nhiệm vụ, quyền hành cụ thể, không dẫm
đạp lên nhau, có quan hệ rõ ràng theo chiều dọc, đảm bảo quyền lực của nhà
vua và sự thống nhất chính trị của cả nước.
2. Cải cách quân đội và củng cố quốc phòng
Cùng với quá trình xây dựng bộ máy chính quyền quân chủ chuyên chế
trung ương tập quyền, nhà Lê sơ cũng rất chú trọng tổ chức xây dựng và củng
cố lực lượng quốc phòng.
Sau khi hoàn thành nhiệm vụ giải phóng đất nước, đầu năm 1429 Lê Lợi
cho 25 vạn quân trở về làm ruộng, giữ lại 10 vạn quân thường trực. Số quân còn
lại chia làm 6 quân ngự tiền đóng ở kinh thành, có nhiệm vụ bảo vệ kinh đô và
cung điện nhà vua, và quân 5 đạo đóng giữ ở các địa phương. Trong số 10 vạn
quân, Lê Lợi chia làm 5 phiên, cứ lần lượt thay nhau về làm ruộng chỉ giữa lại
một phiên thường trực. Mỗi khi có việc dụng binh, nhà nước mới điều động
toàn bộ quân đội.
Đến năm 1466, toàn bộ hệ thống quân đội được Lê Thánh Tông tiến hành
cải tổ. Quân đội được chia làm 2 loại: quân thường trực bảo vệ kinh thành gọi là
cấm binh hay thân binh và quân ở các đạo gọi là ngoại binh. Về ngoại binh, Lê
Thánh Tông bỏ các đạo, chia binh làm 5 phủ, mỗi phủ gồm 6 vệ, mỗi vệ có 5
hoặc 6 sở. Sau này, Thánh Tông cho đặt thêm các vệ quân ở các đô ti xa.
Để tăng cường hiệu lực quốc phòng và sức mạnh quân đội, Lê Thánh
Tông cũng có sự cải cách về hành chính quân sự - quốc phòng. Binh chế nhà Lê
năm 1467 quy định quân số ở các đơn vị thống nhất như sau: mỗi ti gồm 100
người, mỗi sở gồm 400 người, chia làm 20 đội, mỗi đội 30 người. Nhà nước
thực hiện chính sách “ngụ binh ư nông” trong quân đội, nghĩa là quân đội được
chia thành 2 – 3 phiên, theo định kì một phiên túc trực làm nhiệm vụ và luyện
tập võ nghệ, còn lại về làm ruộng. Với cách tổ chức quân đội như vậy, nhà Lê
đã hình thành một cơ cấu tổ chức quân đội hoàn chỉnh, chặt chẽ, bao gồm quân
triều đình và quân địa phương, Nhà nước vừa có lực lượng quân đội thường trực
mạnh vừa có lực lượng dự bị đông đảo có thể điều động khi cần thiết.
Về chủng loại, quân đội nhà Lê gồm bộ binh, thủy binh, tượng binh, kị
binh. Ngoài ra còn có các đơn vị chuyên sử dụng một loại súng gọi là hỏa đồng.
Vũ khí đơn giản có đao, kiếm, giáo mác, cung tên,…
Nhà Lê rất chú ý đến rèn luyện quân đội. Hàng năm đều có ngày duyệt
tập ở kinh thành hay địa phương. Năm 1467, Thánh Tông quy định cứ 3 năm tổ
chức một kì thi khảo võ nghệ của quân sĩ và định lệ thưởng phạt.
Chế độ tuyển quân được quy định chặt chẽ, thông thường cứ một hộ có 3
đinh thì lấy 1 người làm lính, 1 người dự bị. Vì vậy tuy số lượng quân thường
trực không nhiều nhưng khi cần huy đông có thể tập hợp được 26 đến 30 vạn
quân.
Thời kì này quân đội đặt dưới sự chỉ huy thống nhất của triều đình mà
người đứng đầu là nhà vua; các vương hầu quý tộc không có quyền tổ chức
những đội quân riêng như trước nữa; xu hướng tập trung quyền lực lớn ở triều
đình ngày một phát triển. Chế độ binh dịch xây dựng chính quy. Quân lính được
chia ruộng đất công của làng xã và được luân phiên về tham gia sản xuất, nhằm
đảm bảo nhân lực cho lao động, giảm bớt người thoát li sản xuất, đỡ phần chi
phí quân sự, bảo đảm cân đối giữa kinh tế và quốc phòng.
Trên cơ sở một đội quân mạnh, nhà Lê đã có chính sách biên giới rất
cương quyết. Với các nước láng giềng nhỏ bé ở phía Tây và Nam như Ai Lao,
Chân Lạp, mỗi lần xâm lấn bờ cõi đều lập tức bị đánh tan. Đối với nhà Minh ở
phía Bắc, nhà Lê thực hiện chính sách vừa mềm mỏng, khôn khéo nhưng cũng
rất kiên quyết nhằm giữ vững chủ quyền, giữ vững “thước núi, tấc sông” mà cha
ông để lại. Trong lời dụ của Lê Thánh Tông nêu rõ: “Một thước núi, một tấc
sông của ta lẽ nào tự tiện vứt bỏ được. Phải kiên quyết tranh luận không để họ
lấn dần,…nếu kẻ nào dám đem một tấc đất của vua Thái Tổ để lại làm mồi cho
giặc thì người đó sẽ bị trừng trị nặng”.
3. Hoàn chỉnh pháp luật
Ngay sau khi lên ngôi, vua Lê Thái Tổ đã rất chú ý đến việc xây dựng
pháp chế, ông nhận định rằng: “Từ xưa tới nay, trị nước phải có pháp luật,
không có pháp luật thì sẽ loạn”, nên vào năm 1428 ông đã “hạ lệnh cho các
quan Tư Không, Tư Đồ, Thiếu úy, Hành khiển bàn định pháp lệnh cai trị quân
dân, để người làm tướng biết phép trị quân, quan các lộ biết phép trị dân, cũng
để răn dạy quân dân biết là có pháp luật. Mọi công việc đều có các cơ quan
phụ trách riêng”. Qua các đời Thái Tông, Nhân Tông nhà nước đã xây dựng
thêm một số quy tắc, điều luật về kiện tụng, quyền thừa kế... Đến thời vua
Thánh Tông, năm 1483 vua sai triều thần tập hợp những điều lệ đã ban hành ở
các đời vua trước, tham khảo pháp luật đời Lý, Trần, pháp luật nhà Tùy, Đường,
Minh (của Trung Quốc) rồi căn cứ vào tình hình mới trong nước mà soạn ra bộ
luật mới. Đó là bộ luật Hồng Đức mà sau này được sửa chữa, bổ sung để lập
thành bộ Lê triều Hình luật.
Bộ luật gồm 722 điều, chia làm 6 quyển, gồm 16 chương bao nhất, gồm
những quy định về hình sự, dân sự, đất đai, hôn nhân, gia đình, về tố tụng và cả
những quy định luật hành chính, về hội hôn và điền sản. Bộ luật Hồng Đức tổng
hợp, điều chỉnh toàn bộ những quan hệ xã hội căn bản nhất, rường cột nhất tạo
nên cơ sở chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội của nhà Lê.
Nội dung cơ bản của bộ luật nhằm khẳng định và củng cố sự thắng lợi
của giai cấp địa chủ, trấn áp mọi hành động chống đối nhà nước phong kiến,
xâm phạm đến lợi ích của giai cấp thống trị.
Bộ luật bảo vệ quyền thống trị của nhà nước trung ương tập quyền.
Những hành động chống đối triều đình, chống đối lễ giáo phong kiến đều bị
ghép vào tội “thập ác” – 10 tội nghiêm trọng nhất bị xét xử không ân giảm đối
với bất kì trường hợp nào. Bộ luật cũng bảo vệ lợi ích của giai cấp phong kiến,
đặc quyền của tầng lớp quý tộc, đồng thời củng cố trật tự xã hội phong kiến, bảo
vệ chế độ gia tộc phụ quyền và các nguyên tắc về đạo đức phong kiến.
Khuyến khích nuôi dưỡng thuần phong mĩ tục. Những nghi lễ về hôn
nhân, về trang phục đều được quy định chặt chẽ.
Trong Quốc triều hình luật có những điều luật nhằm bài trừ nạn tham
những, hối lộ, lãng phí, của công, ức hiếp dân lành và chú trọng phần nào đến
việc bảo vệ lợi ích của dân. Như điều 184 quy định: “Các quan tuy làm việc ở
ngoài nếu không biết làm việc lớn, trừ việc hại, để dân trăm họ phải phiêu bạt đi
nơi khác, hộ khẩu bị hao hụt và có trộm cướp tụ tập ở trong hạt thì xử tội bãi
chức hay tội đồ”.
Bộ luật rất chú ý đến việc thống nhất các thành phần dân tộc của quốc gia
Đại Việt. Một số điều luật thể hiện sự chú ý của Nhà nước đối với các dân tộc ít
người ở miền núi, như điều 40 quy định: “Người miền thượng du cùng phạm tội
với nhau thì theo phong tục xứ ấy mà định tội. Người thượng du phạm tội với
người trung châu thì theo luật mà định”.
Bộ luật cũng có những điều bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ nhất là về
quyền lợi kinh tế. Con gái được hưởng quyền chia gia tài bình đẳng như con
trai, trong trường hợp gia đình không có con trai thì con gái được hưởng quyền
thừa kế hương hỏa (điều 390). Hoặc về mặt hôn nhân, người con gái đã đính
hôn nhưng chưa làm lễ thành hôn mà người con trai bỗng mắc bệnh không thể
cứu chữa, hoặc phạm tội, hoặc phá sản thì người con gái được phép xin từ hôn
hoặc trả lại sính lễ. Những quy định nói trên nhằm bảo vệ quyền lợi của người
phụ nữ được ghi vào luật pháp thời Lê thể hiện tính dân tộc, sự tôn trọng người
phụ nữ, sự tiến bộ của luật pháp lúc bấy giờ.
Luật Hồng Đức đã đề cập hầu hết đến các hoạt động xã hội và mang tính
dân tộc sâu sắc. Bộ luật đánh dấu một trình độ phát triển cao của tư tưởng pháp
lý của dân tộc Đại Việt. Bộ luật biểu hiện rõ nét tính chất giai cấp và quyền lực
của nhà nước phong kiến đối với nhân dân, nhưng đây cũng là bộ luật tương đối
tiến bộ nhất trong thời đại phong kiến Việt Nam, mang đậm nét sáng tạo và tinh
thần thực tiễn của giai cấp phong kiến Việt Nam trong giai đoạn đi lên của nó.
Vì vậy nó đã được sử dụng trong suốt bốn thế kỉ (XV - XVIII).
Nhà sử học Phan Huy Chú coi pháp luật thời Lê như “mẫu mực để trị
nước, khuôn phép để buộc dân” (trong thời kì phong kiến). Giáo sư
Oliveroldman, chủ nhiệm khoa luật Đông Á (Đại học Luật Haward) nhận xét:
“Bộ luật thời Lê của nước Việt Nam truyền thống là một công trình bất hủ của
vùng Đại Đông Á truyền thống… trong đó có nhiều điều đã có thể so sánh
ngang về mặt chức năng với những quan điểm pháp luật ở Phương Tây cận
đại”.
4. Cải cách kinh tế, phát triển nông nghiệp
Vua Lê Thánh Tông được đánh giá là một vị vua minh quân không chỉ
bởi ông đã tiến hành những cải cách vừa có lợi cho chính quyền của ông mà
những cải cách đó còn phát huy được tiềm năng của kinh tế nông nghiệp, góp
phần phát triển kinh tế của đất nước. Ngay sau khi lên ngôi, Thánh Tông đã ban
hành các chính sách phát triển kinh tế, đặc biệt với tư tưởng “trọng nông ức
thương”, thì ruộng đất trở thành vấn đề trung tâm của cải cách kinh tế. Các chế
độ ruộng đất tiếp tục được củng cố, hoàn thiện bởi những chính sách cải cách
phù hợp.
- Chế độ lộc điền với chính sách ban cấp ruộng lộc cho quý tộc, quan lại
Thời nhà Lê, chế độ lộc điền là đem ruộng đất thuộc quyền sở hữu của nhà
nước ban cấp cho tầng lớp quan lại cao cấp. Chế độ được thi hành ngay từ thời
vua Lê Thái Tổ nhưng chưa trở thành quy chế. Đến thời vua Thánh Tông, chính
sách này mới được quy định và ban hành thống nhất trong cả nước.
Ruộng đất dùng để ban cấp chủ yếu gồm loại ruộng đất công làng xã.
Lộc điền gồm 2 loại: một loại cấp vĩnh viễn gọi là ruộng đất thế nghiệp, một
loại cấp tạm thời trong một đời, sau khi chết 3 năm phải hoàn trả lại cho nhà
nước. Theo quy định năm 1477, tổng diện tích ruộng đất cấp cho thân vương
là 2090 mẫu, trong đó có 640 mẫu cấp vĩnh viễn, tòng tứ phẩm được cấp 39
mẫu.
Chế độ lộc điền là hình thức ban cấp ruộng đất quy mô của nhà Lê nhằm
ưu đãi tầng lớp quý tộc quan lại cao cấp, biến họ trở thành những địa chủ lớn.
Chế độ này góp phần củng cố và phát triển chế độ sở hữu tư nhân về ruộng đất
cũng như góp phần xác lập quan hệ sản xuất địa chủ, tá điền và chế độ bóc lột địa
tô phù hợp với bước phát triển mới của chế độ sở hữu tư nhân lớn về ruộng đất và
của những quan hệ sản xuất phong kiến. Do đó, chế độ lộc điền đã đánh dấu một
bước tiến trong quá trình hình thành và xác lập chế độ phong kiến Việt Nam.
- Chính sách quân điền đối với ruộng đất công làng xã.
Cũng như chính sách lộc điền, chính sách quân điền đã được thực ngay từ
những triều vua đầu tiên của nhà Lê sơ. Đến đời vua Thánh Tông từ năm 1477,
chính sách quân điền mới được chính thức ban hành và từ năm 1481, đã thực
hiện thống nhất trên quy mô cả nước theo nguyên tắc:
+ Tất cả mọi người từ quan tam phẩm đến cô nhi quả phụ đều được chia
ruộng công. Những gia đình nông dân thường đã có ruộng đất riêng đầy đủ thì
không được cấp
+ Ruộng xã nào chia cho dân xã ấy, xã nào ruộng quá nhiều, người ít thì
cho phép lấy bớt ruộng xã nhiều chia cho xã bên cạnh ruộng ít, người nhiều.
+ Dân trong xã tùy theo thứ hạng được cấp phần ruộng đất khác nhau.
Quan tam phẩm được 11 phần, ngũ phẩm được 9,5 phần… Cô nhi, quả phụ được
3 phần.
+ Ruộng công làng xã cứ 6 năm chia lại một lần. Mọi người cày cấy ruộng
công đều phải nộp tô cho nhà nước. Riêng quan tứ phẩm trở lên do lộc điền ít nên
không phải nộp tô.
Chính sách quân điền là một đòn tấn công mạnh mẽ nhằm phủ định quyền
chi phối ruộng đất công của làng xã theo tục lệ, buộc làng xã phải tuân thủ những
nguyên tắc quy định về phân chia và hưởng thụ bộ phận ruộng đất công theo quy
định của nhà nước. Trên nguyên tắc, ruộng đất công làng xã không được đem
mua bán, chuyển nhượng, quyền đó thuộc nhà nước trung ương, nhà vua.
Nhà nước trung ương, nhà vua với chính sách quân điền đã trở thành người
chủ lớn nhất trong cả nước và nông dân làng xã trở thành tá điền của nhà nước,
làng xã rơi xuống địa vị là người quản lý ruộng đất cho nhà nước trung ương và
nhà vua. Như vậy, chính sách quân điền cũng đã góp phần quan trọng vào việc
xác lập và thống trị của những quan hệ sản xuất phong kiến – quan hệ sản xuất
địa chủ - tá điền trong xã hội ở thế kỉ XV. Tuy nhiên, chính sách này còn chứa
đựng sâu sắc tính giai cấp và bộc lộ những hạn chế khi chính nó lại là nguyên
nhân làm sâu sắc thêm mâu thuẫn giữa nhà nước phong kiến với nông dân. Chính
sách quân điền của Lê Thành Tông đã trói buộc người nông dân vào ruộng đất để
bóc lột thuế và chịu mọi gánh nặng sưu dịch của nhà nước trong điều kiện nền
kinh tế hàng hóa đang có điều kiện thuận lợi và chế độ tư hữu đang ngày càng
thắng thế.
- Chính sách khẩn hoang và lập đồn điền
Bên cạnh việc củng cố các chế độ ruộng đất, nhà Lê ngay từ rất sớm còn
đưa ra những chính sách khuyến khích nông dân các làng xã khai hoang lập
làng để phục hồi nền kinh tế nông nghiệp, đặc biệt thời vua Lê Thánh Tông.
Điều 349 trong bộ luật Hồng Đức quy định việc khai hoang, khai thác hết diện
tích cày cấy thành pháp lệnh của nhà nước.
Ngoài ra, Lê Thánh Tông còn đẩy mạnh việc khai hoang lập đồn điền.
Chính sách này được bắt đầu thi hành từ thời Thái Tổ và được mở rộng dưới
thời Thánh Tông. Chỉ dụ năm 1481 nêu rõ mục đích lập đồn điền của nhà nước
“để khai thác hết sức nông nghiệp, mở rộng nguồn súc tích cho nước”. Lực
lượng được huy động bao gồm cả quân lính đồn trú, tù binh, tội nhân. Nhà nước
đặt ra cơ quan chuyên trách công việc khai hoang, lập đồn điền do các chức
quan chánh, phó sứ đồn điền phụ trách. Các quan có nhiệm vụ mộ dân nghèo
không ruộng lưu tán đến đây khai hoang và phân chia ruộng đất cho họ cày cấy.
- Chính sách phát triển nông nghiệp.
Để phát triển nông nghiệp, Lê Thành Tông còn đưa ra nhiều chính sách.
Trước tiên là chính sách tăng cường sức sản xuất. Nhằm tăng cường sức lao động
cho nông nghiệp vào vụ cần kíp, Lê Thánh Tông không chỉ cho quân đội được
thay phiên nhau về làm ruộng mà còn huy động cả các lực lượng “phi nông
nghiệp” khác như lực lượng thợ bách tác cho mùa vụ. Những việc xây dựng, tu
sửa không được huy động sức dân vào lúc đương mùa vụ. Thậm chí thời Lê còn
quy định chỉ cho phép chuộc ruộng vào các tháng 3, tháng 6 là những tháng rỗi
rãi. Nếu giữa kì làm ruộng mà cưỡng đòi chuộc thì theo luật, người vi phạm bị
đánh 80 trượng và bị tội đồ.
Nhà Lê rất chăm lo đến thủy lợi, đê điều. Các thừa tuyên đều có chức
quan hà đê chuyên phối hợp với các quan phủ, huyện trông nom, sửa đắp đê
điều. Năm 1498, mỗi xã phải cử một xã trưởng chuyên trách việc đê điều và
khuyến nông. Trường hợp đê vỡ, triều đình lập tức cử quan đi khám xét, huy
động nhân dân, quân lính, công tượng, học sinh Quốc tử giám đi sửa đắp, cứu
hộ. Việc đào kênh, khơi ngòi được tổ chức.
Ngoài ra, nhà nước còn quy định mọi công trình xây dựng cần điều động
dân phu đều phải tiến hành ngoài thời vụ cày cấy, gặt mùa, “hễ công việc gì có
hại cho nghề nông thì không được khinh động sức dân”. Pháp luật nhà Lê bảo
vệ chặt chẽ sức kéo trong nông nghiệp. Tội ăn trộm trâu bò bị trừng phạt nặng.
Năm 1489, Thánh Tông ra lệnh cấm giết trâu bò ban đêm.
5. Cải cách về văn hóa, giáo dục
Cùng với việc xây dựng thiết chế mới, Lê Thánh Tông đẩy mạnh phát triển
giáo dục, đào tạo nhân tài.
Năm 1462, vua Thánh Tông đặt lệ “Bảo kết thi hương” quy định rõ thủ
tục giấy tờ của những người ứng thí. Sau đó cứ 3 năm, nhà nước mở 1 kì thi.
Vua khuyến khích việc học tập thi cử bằng cách đặt lệ xướng danh, treo bảng,
ban áo mũ, phẩm tước, dựng bia tiến sĩ và lệ vinh quy bái tổ. Những biện pháp
nói trên đã góp phần quan trọng phát triển giáo dục trong nước.
Vua Thánh Tông cho xây dựng lại Văn Miếu, mở rộng Thái học viện,
làm kho Bí thư để chứa sách, mở thêm Tú lâm cục và Sùng văn quán để bồi
dưỡng con em quý tộc, quan lại cao cấp… Nội dung học tập được quy định đầy
đủ rõ ràng, các học quan được tuyển chọn cẩn thận. Nhờ đó, việc học do nhà
nước tổ chức được đẩy mạnh, đồng thời việc học trong dân gian do tư nhân mở
trường cũng được khuyến kích phát triển
Bên cạnh sự phát triển về giáo dục, Lê Thánh Tông còn có đóng góp nhất
định đối với nền văn hóa Đại Việt thế kỉ XV. Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô
Sĩ Liên, Hồng Đức quốc âm thi tập, Hồng Đức thiên hạ bản đồ, Thiên Nam dư
hạ...là những giá trị văn hóa tiêu biểu của triều đại Lê Thánh Tông. Nói tới công
lao của ông đối với nền văn hóa dân tộc, không thể không kể đến việc ông hủy
án, minh oan cho Nguyễn Trãi, cho sưu tầm lại thơ văn Nguyễn Trãi đã bị tiêu
hủy. Chính Lê Thánh Tông đã cho tạc bia về Nguyễn Trãi: "Ức Trai tâm
thượng quang khuê tảo" (Tấm lòng Ức Trai sáng tựa sao Khuê). Lê Thánh Tông
còn tự lập ra hội Tao Đần gồm 28 ông Tiến sĩ giỏi văn thơ nhất nước thời đó gọi
là “Tao Đàn nhị thập bát tú”.
Về tư tưởng, tôn giáo, thời Lê sơ đã đưa Nho giáo lên địa vị độc tôn. Vua
Lê Thánh Tông đã đưa các giáo lý nhà Nho vào các huấn điều trong bản 24
huấn điều của Lê Thánh Tông. Những quy định khắt khe của Nho giáo cũng
được đưa vào luật Hồng Đức. Còn đối với Đạo giáo và Phật giáo, ông thi hành
chính sách chặt chẽ hơn. Năm 1461, nhà nước cấm quan lại, nhân dân không
được xây thêm chùa quán mới, không được tự tiện đúc chuông, tô tượng. Hoạt
động của bọn thầy cúng, thầy bói, đạo sĩ bị ngăn cấm.
Có thể xem thời Lê sơ, đặc biệt là triều vua Lê Thánh Tông đã có nhiều
đóng góp tiến bộ cho nền văn hóa và giáo dục thi cử phong kiến đương thời.
III. Tác dụng của cuộc cải cách đối với xã hội Việt Nam thế kỉ XV –
XVI
1. Hoàn chỉnh bộ máy nhà nước, ổn định chính trị
Hệ thống hành chính thời Lê Thánh Tông thể hiện được tính chất tập
trung từ dưới lên trên, từ địa phương đến trung ương, đề cao quyền hành toàn
diện của người đứng đầu nhà nước. Điều này rất quan trọng với một quốc gia
thống nhất trên cơ sở nông nghiệp, kinh tế hàng hóa chưa phát triển, giao thông
liên lạc còn khó khăn. Đồng thời nó cũng thể hiện mong muốn của người cải
cách: “Các chức lớn nhỏ cùng ràng buộc nhau, nặng nhẹ cùng giữ gìn nhau, lẽ
phải của nước không bị chuyện riêng, việc lớn của nước không đến lung lay,
khiến mọi người có thói quen tốt làm hợp đạo đúng phép”.
2. Phát triển kinh tế
Các chế độ ruộng đất dưới thời Lê Thánh Tông đã góp phần quan trọng
vào sự xác lập và thống trị của những quan hệ sản xuất phong kiến: quan hệ sản
xuất địa chủ - tá điền trong xã hội ở thế kỉ XV, khẳng định sự sở hữu nhà nước
về ruộng đất Những chính sách này còn có tác dụng giải quyết vấn đề ruộng đất,
tạo đà cho nền nông nghiệp phát triển.
Ngoài ra, nhờ những biện pháp phát triển kinh tế, cho đến nửa sau thế kỉ
XV, diện tích ruộng đất khai hoang đã được khôi phục, diện tích sản xuất tăng
lên, ngân khố nhà nước vì thế cũng được tăng thêm. Những chính sách đó cũng
góp phần là gia tăng bộ phận nông dân tư hữu, tự do điều hòa mâu thuẫn giai
cấp, ổn định xã hội, phát triển kinh tế.
Bên cạnh mặt tích cực, những chính sách kinh tế cũng bộc lộ những hạn
chế như coi trọng nông nghiệp, chưa chú trọng phát triển thủ công nghiệp,
thương nghiệp, hạn chế phát triển kinh tế hàng hóa. Và ngay trong chính sách
quân điền cũng thể hiện hạn chế của nó khi ràng buộc người nông dân vào
ruộng đất để thu thuế, ảnh hưởng đến sự ổn định của xã hội.
3. Văn hóa, giáo dục
Với những chính sách về giáo dục – khoa cử, Lê Thánh Tông đã phần nào
tạo ra một hệ thống quan lại trí thức có tài, đủ năng lực quản lí đất nước. Và
những đóng góp của Lê Thánh Tông trong lĩnh vực văn hóa, giáo dục đã góp
phần làm phong phú hơn kho tàng văn hóa Đại Việt nói riêng và văn hóa dân
tộc Việt Nam nói chung.
Nhưng chúng ta cũng không thể phủ nhận hạn chế của chính sách văn hóa
do Lê Thánh Tông đưa ra trong việc độc tôn Nho giáo, hạn chế Phật giáo. Đây
là nguyên nhân gây nên những mâu thuẫn trong giới những người theo đạo, là
một trong những mầm mống gây nên sự bất ổn định về xã hội.
PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC
Việc giảng dạy chuyên đề và phương pháp dạy chuyên đề đang là vấn đề
được quan tâm hiện nay tại các trường chuyên, nhất là đối với bộ môn Lịch sử.
Với đặc thù kiến thức lịch sử bao gồm nhiều yếu tố: sự kiện lịch sử, các niên
đại, địa danh, nhân vật lịch sử, các biểu tượng, khái niệm lịch sử, các quy luật,
… Do đó phương pháp giảng dạy chuyên đề lịch sử phải đáp ứng được mục tiêu
bài học, kiến thức chuyên môn và phát huy được tính tích cực của học sinh.
Thực tế cho thấy không có một phương pháp dạy học nào là toàn năng có thể
phù hợp với mọi mục tiêu và nội dung dạy học. Mỗi phương pháp và hình thức
dạy học đều có những ưu, nhược điểm và giới hạn sử dụng riêng. Vì vậy việc sử
dụng nhuần nhuyễn các phương pháp giảng dạy và việc phối hợp đa dạng các
phương pháp, hình thức dạy học trong toàn bộ quá trình là phương hướng quan
trọng để phát huy tính tích cực và nâng cao chất lượng dạy học.
Nhận thức được sự quan trọng trong việc sử dụng các phương pháp dạy
học phù hợp với đặc thù bộ môn và với từng kiến thức chuyên đề, trong quá
trình giảng dạy chúng tôi cũng đã sử dụng khéo léo các phương pháp dạy học
truyền thống và đổi mới phương pháp – sử dụng các phương pháp dạy học mới.
Với tuổi đời và tuổi nghề còn non trẻ, chúng tôi xin mạnh dạn đề xuất một số
phương pháp dạy học chuyên đề “Cải cách Lê Thánh Tông – nhân tố quyết
định dẫn tới sự hưng thịnh của triều đại Lê sơ thế kỉ XV” như sau:
1. Phương pháp sử dụng sách giáo khoa và các tài liệu học tập khác
Nhằm nâng cao hiệu quả học tập chuyên đề, trước khi bắt đầu chuyên đề,
chúng tôi đã giới thiệu và cung cấp cho học sinh một số tài liệu học tập cơ bản
như:
1. Sách giáo khoa Lịch sử 10 nâng cao – Nhà xuất bản Giáo dục
2. Đại cương Lịch sử Việt Nam tập I – Nhà xuất bản Giáo dục
3. Một số chuyên đề lịch sử Việt Nam – Nhà xuất bản Đại học Quốc gia
Hà Nội
Sách giáo khoa là tài liệu cơ bản, bắt buộc trong học tập của học sinh, bên
cạnh đó với học sinh học chuyên, ngoài sách giáo khoa các em còn được tiếp
cận với các sách chuyên ngành nâng cao. Đó là phương tiện cơ bản để các em
tiếp thu kiến thức. Do đó, trong mỗi chuyên đề chúng tôi luôn có sự định hướng
tài liệu học tập cho các em (phần lớn là những tài liệu phù hợp với nội dung học
rập và khả năng nhận thức của học sinh) và hướng dẫn các em một số phương
pháp sử dụng tài liệu có hiệu quả như:
- Hướng dẫn học sinh xác định kiến thức cơ bản trong bài viết của sách
giáo khoa, và tư liệu.
- Trình bày kiến thức lĩnh hội được từ sách giáo khoa thông qua tóm tắt,
lập sơ đồ, bảng niên biểu
- Gạch chân các thuật ngữ lịch sử khó hiểu, những vấn đề cần thắc mắc.