Đặc điểm tiểu thuyết tạ duy anh
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Cùng với thời gian, những thành tựu của văn học thời kỳ đổi mới
ngày càng được khẳng định mạnh mẽ. Với những đột phá về lí luận thể loại,
tiểu thuyết là thể loại thực sự thành công với nhiều lối viết, cách viết mới mẻ,
đa dạng, phù hợp với thực tế bề bộn ngổn ngang và đầy biến động của xã hội
Việt Nam đương đại. Chính điều này đã làm nên “một trào lưu có tên là đổi
mới” với những nhà văn: Phan Thị Vàng Anh, Tạ Duy Anh, Nguyễn Thị Thu
Huệ, Hồ Anh Thái... Họ đang đi theo xu hướng “đập vỡ thành từng mảnh
những hình ảnh, ý niệm, hệ thống và giá trị của trật tự cũ và kế đến là xếp
những mảnh vụn ấy theo một trật tự mới - một trật tự chủ quan đầy tính sáng
tạo và bất khả đoán” [15]. Trong những tên tuổi đó, Tạ Duy Anh được xem là
một hiện tượng nổi bật, một cây bút đã thu hút được nhiều sự quan tâm của
bạn đọc cũng như của giới phê bình. Song những tranh cãi về tác phẩm của
ông chắc chắn chưa dừng lại.
1.2. Với Tạ Duy Anh, mỗi tiểu thuyết là một sự nỗ lực, phá cách thật
sự. Cuốn tiểu thuyết đầu tay của ông là Khúc dạo đầu cũng đúng với tên tác
phẩm, đây là bản nhạc dạo đầu êm ái, nhẹ nhàng nhưng không gây được ấn
tượng nhiều cho bạn đọc. Cuốn tiểu thuyết thứ hai, Lão khổ, được viết từ
9/9/1990 đến 5/8/1991, ra mắt công chúng năm 1992 đã nhận được nhiều sự
quan tâm đánh giá cao của một số nhà phê bình, đây được xem là một bước
ngoặt trong sáng tác tiểu thuyết của Tạ Duy Anh. Sau gần 10 năm vắng bóng
Tạ Duy Anh trở lại với tiểu thuyết và cho xuất bản cuốn Đi tìm nhân vật. Khi
cuốn sách được tái bản, bị thu hồi và dường như chính điều này lại làm người
ta quan tâm và chú ý đến Tạ Duy Anh nhiều hơn. Trải qua bao nhiều thăng
trầm, trắc trở trong sáng tác nhưng Tạ Duy Anh vẫn bền bỉ, cặm cụi, không
ngừng sang tác khẳng định quan điểm thẩm mỹ của mình trên văn đàn. Năm
2004 tiểu thuyết Thiên thần sám hối ra đời, các ý kiến khen - chê lại bùng lên
sôi nổi. Mới đây năm 2008 ông lại cho xuất bản tiểu thuyết Giã biệt bóng tối,
1
gây sự chú ý đặc biệt của dư luận. Và gần đây là cuốn Sinh ra để chết được in
tại Mỹ. Với Tạ Duy Anh “một số tiểu thuyết có khi còn đang dang dở, hoặc lạ
lẫm, khó đọc... nhưng ít nhất chúng đang báo hiệu một ý thức mới về thể loại
và việc trả lời câu hỏi “có thể viết tiểu thuyết như thế nào? Rõ ràng được tự
giác hơn, do đó người đọc tìm được nhiều hứng thú bất ngờ hơn”.
1.3. Là một nhà văn luôn tìm tòi và sáng tạo, ông “luôn tìm cách phá bỏ
thị hiếu thông thường của người đọc”. Tạ Duy Anh xác định: “Thị hiếu tạo
cho sự ổn định thẩm mỹ nhưng cũng chính thị hiếu ấy ngăn cản sự cách tân.
Tôi chấp nhận sự bài xích, thậm chí là nguyền rủa để tạo một cảm nhận khác,
một tư duy khác. Nghệ thuật không phải là một cuộc giễu hành và nhà văn
phải chấp nhận con đường mình đã chọn”. Quan niệm mới mẻ, táo bạo như
vậy cùng với những tiểu thuyết trình làng đã làm nên một Tạ Duy Anh mới lạ
trong tiểu thuyết, một “tác giả của những tác phẩm luôn làm bạn đọc giật
mình và suy ngẫm bởi những vấn đề gai góc của xã hội” và thời đại.
Tuy nhiên, đặc điểm tiểu thuyết của Tạ Duy Anh đến nay vẫn chưa
được tìm hiểu và nghiên cứu một cách chu đáo. Tìm hiểu tiểu thuyết Tạ Duy
Anh cũng chính là một cách đánh giá về những thành tựu và đóng góp của
ông cho văn học Việt Nam đương đại.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Tạ Duy Anh là nhà văn được dư luận quan tâm. Tác phẩm của ông ẩn
chứa những giá trị nghệ thuật gây xôn xao dư luận, tạo ra nhiều sự tranh cãi,
khen - chê. Đi sâu tìm hiểu các tiểu thuyết của Tạ Duy Anh, chúng tôi thấy nó
đặt ra những vẫn đề nghiêm túc về cuộc sống, chứa đựng sự dồi dào của một
cây bút trẻ. Chính vì vậy, Tạ Duy Anh mới chỉ được chú trọng những năm gần
đây. Nhưng ông đã dành được rất nhiều sự quan tâm của độc giả và giới phê
bình.
Trước hết, trong các trường đại học có một số luận văn Thạc sĩ, khoá
luận tốt nghiệp về các tác phẩm của Tạ Duy Anh. Có thể kể như Nguyễn Thị
2
Mai Loan (2004), Nông thôn trong sáng tác của Tạ Duy Anh, luận văn Thạc sĩ
Ngữ văn, ĐHSP, Hà Nội; Nguyễn Thị Ninh (2005), Thế giới nghệ thuật Tạ
Duy Anh, luận văn Thạc sĩ Ngữ văn, ĐHSP, Hà Nội; Nguyễn Thị Hồng Giang
(2005) Tạ Duy Anh và việc làm mới nghệ thuật tiểu thuyết, luận văn Thạc sĩ
Ngữ văn, ĐHSP, Hà Nội; Cao Tố Nga (2006), Cảm thức về cái phi lý trong
sang tác của Tạ Duy Anh, luận văn Thạc sĩ, ĐHSP, Hà Nội; Vũ Lê Lan
Hương (2006), Thế giới nhân vật trong sáng tác của Tạ Duy Anh, luận văn
Thạc sĩ, ĐHSP, Hà Nội; Võ Thị Thanh Hà (2006), Nhân vật tiểu thuyết Tạ
Duy Anh, luận văn Thạc sĩ, ĐHV, Nghệ An; Nguyễn Thị Kim Lan (2006),
Nghệ thuật kết cấu trong một số tiểu thuyết huyền ảo triết luận của Tạ Duy
Anh, Châu Diên, Hồ Anh Thái, ĐHSP, Hà Nội; Nguyễn Tiến Hùng (2008),
Nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết của Tạ Duy Anh, luận văn Thạc sĩ, ĐHSP,
Hà Nội; Đào Thì Bích Thuỷ (2008), Biểu tượng trong cấu trúc tiểu thuyết
Thiên thần sám hối của Tạ Duy Anh, luận văn Thạc sĩ, ĐHSP, Hà Nội,... Và
một số bài viết hoặc giới thiệu, phát biểu cảm nhận trên báo chí, trên các
trang web điện tử như Tạ Duy Anh Môtíp “tội ác và trừng phạt”sẽ còn ám
ảnh các nhà văn, http://www.eva.com.vn /thứ 5.27.5.04, Việt Hoài (2004),
Tạ Duy Anh giữa lằn ranh thiện ác, http://www.eva.com.vn, Đoàn Ánh
Dương, Tiến trình tiểu thuyết Tạ Duy Anh (nhìn từ lối viết),
http://www.vannghequandoi.com.vn/th2.16.3.09...
Tạ Duy Anh đến với văn chương cũng thật tình cờ. Ông bắt đầu viết từ
năm năm 1980, năm 1981. Tác phẩm đầu tay của ông được in trên báo Lao
động với bút danh Tạ Duy Anh. Tạ Duy Anh vốn là một cây bút truyện ngắn
nhưng sau thành công đầu tay và sau tiểu thuyết Khúc dạo đầu không gây
được tiếng vang, nhà văn lại nổi lên với bộ ba tiểu thuyết: Lão Khổ, Đi tìm
nhân vật, Thiên thần sám hối và mới gần đây là tiểu thuyết Giã biệt bóng tối.
Theo Hoàng Ngọc Hiến: “Tạ Duy Anh bước qua lời nguyền để đi đến Lão
Khổ”, thêm một giả thiết văn học về bản chất và thân phận người nông dân
Việt Nam. Đây là một cuốn tiểu thuyết rất quan trọng”.
3
Báo Pháp luật số 140, năm 2004 nhận định “Hầu hết những tác phẩm
của ông (Trừ truyện viết cho thiếu nhi và tản văn) đều rất gai về nội dung thể
hiện dưới cái nhìn hiện thực ở góc khuất”, Đi tìm nhân vật là “bức tranh hiện
thực ngọt ngào của quyền lực, cái chết, sự đồi bại ... Còn Thiên thần sám hối
là cuốn tiểu thuyết rất hay, gần đây viết về nổi đau làm người và chưa được
làm người qua câu chuyện của một hài nhi đang lựa chọn có nên làm hay
không làm”, “ông là một tác giả tâm huyết, trăn trở với số phận con người,
nhất là khi họ rơi vào tình trạng khủng hoảng nhân cách. Tạ Duy Anh đã nhìn
hiện thực một cách lý trí, lạnh lùng nhưng cũng đầy thương xót con người”.
Báo Thể thao và Pháp luật số 47 - 2004 viết: “Mối quan tâm lớn nhất
của Tạ Duy Anh là cái vong bản, đánh mất mình của con người, dưới sự giằng
co xiêu dạt của lịch sử. Trên con đường truy tìm lại mặt mình, cũng như khả
dĩ gương mặt thực của quá khứ, con người vấp phải và bị phong toả bởi thói
gian trá, đớn hèn, vật dục, tàn ác, kể cả trong mỗi cá nhân. Phúc âm duy nhất
là tình yêu, tình cảm trong sạch bản thể của hiện và cái nhìn trung thực, nhân
đạo đối với những vết thương, lỗi lầm của quá khứ”.
Thực ra khi đi tìm hiểu về các tác phẩm của Tạ Duy Anh nhất là về
mảng tiểu thuyết, có thể thấy Tạ Duy Anh một nhà văn “có xu hướng đi sâu
khám phá những bình diện sâu kín nhất, những mảng tối, mảng khuất lấp,
những mảng chưa hoàn thiện trong con người”.
Tóm lại, một số ý kiến đều cho rằng tiểu thuyết của Tạ Duy Anh đã
“làm mới” những cái nhìn quen thuộc của cuộc sống. Ông đã tạo ra cho tiểu
thuyết của mình đặc điểm riêng. Tuy nhiên cho đến nay vẫn chưa có công
trình nào tập trung tìm hiểu, xác định đặc điểm tiểu thuyết Tạ Duy Anh.
3. Đối tượng nghiên cứu và giới hạn của đề tài
3.1. Đối tượng nghiên cứu: Đặc điểm tiểu thuyết Tạ Duy Anh
3.2. Giới hạn của đề tài
4
Luận văn tìm hiểu, phân tích, xác định đặc điểm của tiểu thuyết Tạ Duy
Anh đã được xuất bản tại Việt Nam gồm:
- Khúc dạo đầu (1991) Nxb Thanh Niên.
- Lão khổ, Nxb Hội nhà văn, 2004.
- Đi tìm nhân vật, Nxb Tổng hợp Đồng Nai, 2008.
- Thiên thần sám hối, Nxb Hội nhà văn, 2004.
- Giã biệt bóng tối, Nxb Hội nhà văn, 2008.
Các sáng tác ngoài thể loại tiểu thuyết của Tạ Duy Anh và tiểu thuyết của các
nhà văn khác chỉ là đối tượng để tham chiếu.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Đưa ra một cái nhìn khái quát về tiểu thuyết Tạ Duy Anh trong bối
cảnh của tiểu thuyết Việt Nam đương đại.
4.2. Khảo sát, phân tích, xác định đặc điểm tiểu thuyết Tạ Duy Anh trên
phương diện nội dung, cảm hứng.
4.3. Khảo sát xác định đặc điểm của tiểu thuyết Tạ Duy Anh trên
phương diện thi pháp thể loại.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn dùng nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau trong đó có
các phương pháp chính: Phương pháp thống kê - phân loại, phương pháp
phân tích - tổng hợp, phương pháp so sánh - loại hình, phương pháp cấu trúc
hệ thống...
6. Đóng góp và cấu trúc luận văn
6.1. Đóng góp
Luận văn là công trình tập trung tìm hiểu nghiên cứu và xác định đặc
điểm tiểu thuyết Tạ Duy Anh với cái nhìn hệ thống.
Kết quả của luận văn có thể dung làm tài liệu tham khảo cho việc tìm
hiểu, tiếp nhận tác phẩm Tạ Duy Anh.
5
6.2. Cấu trúc của luận văn
Ngoài Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận
văn được triển khai trong 3 chương:
Chương 1: Tiểu thuyết Tạ Duy Anh trong bối cảnh của tiểu thuyết
Việt Nam đương đại.
Chương 2: Đặc điểm tiểu thuyết Tạ Duy Anh trên phương diện
nội dung
Chương 3: Đặc điểm tiểu thuyết Tạ Duy Anh trên phương diện thi
pháp thể loại.
6
Chương 1
TIỂU THUYẾT TẠ DUY ANH TRONG BỐI CẢNH
CỦA TIỂU THUYẾT VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI
1.1. Tiểu thuyết Việt Nam đương đại, diện mạo, khuynh hướng và
thành tựu
1.1.1. Khái niệm
Tiểu thuyết (tiếng Pháp: roman, tiếng Anh: novel, fiction) theo từ điển
thuật ngữ văn học, là “tác phẩm tự sự cỡ lớn có khả năng phản ánh hiện thực
đời sống ở mọi giới hạn không gian và thời gian. Tiểu thuyết có thể phản ánh
số phận của nhiều cuộc đời, những bức tranh phong tục, đạo đức xã hội, miêu
tả các điều kiện sinh hoạt giai cấp, tái hiện nhiều tính cách đa dạng” [53].
Cũng theo thuật ngữ văn học ở Châu Âu, tiểu thuyết xuất hiện vào thời
kì xã hội cổ đại tan rã và văn học cổ đại suy tàn. Cá nhân con người không
còn cảm thấy lợi ích và nguyện vọng của mình gắn liền với cộng đồng xã hội
cổ đại, nhiều vấn đề của đời sống riêng tư đặt ra gay gắt. Giai đoạn phát triển
mới của tiểu thuyết Châu Âu bắt đầu từ thời phục hưng (thế kỷ XIV đến XVI)
và đến thế kỷ thứ XIX với sự xuất hiện của các nghệ sĩ bậc thầy như: Xtăng
Đan, BanZăc, Thac- cơ - răy, Đích- Kenx, Gôgôn, L.Tônxtôi ..., thể loại này
đã đạt đến sự nảy nở trọn vẹn. Mầm mống tiểu thuyết ở Trung Quốc cũng
xuất hiện sớm vào thời Ngụy- Tấn (thế kỉ III- IV) dưới dạng truyện ghi chép
những sự việc, những ngoài giới hạn kinh sử.
Tiểu thuyết ở Việt Nam phát triển muộn, mãi tới đầu thế kỷ XVIII, với
sự xuất hiện của Nam triều công nghiệp diễn chí (Nguyễn Khoa Chiêm),
Hoàng Lê nhất thống chí (Ngô Gia Văn phái), nước ta mới có tác phẩm có
quy mô tiểu thuyết. Nhưng phải sang đầu thế kỷ XX, nhất là với dòng văn học
lãng mạn và hiện phê phán, ở Việt Nam mới có tiểu thuyết hiện đại.
7
Trong quá trình vận động và phát triển, diện mạo của tiểu thuyết
không ngừng thay đổi. Tuy vậy, giới nghiên cứu đã rút ra một số đặc điểm
của thể loại tiểu thuyết.
So với các thể loại khác của loại tự sự như ngụ ngôn, sử thi thì đặc
điểm tiểu biểu nhất của tiểu thuyết là cái nhìn cuộc sống từ góc độ đời tư. Tuỳ
theo từng thời kỳ phát triển cái nhìn đời tư có thể sâu sắc tới mức thể hiện
được, hoặc kết hợp được với các chủ đề thế sự hoặc lịch sử dân tộc. Những
yếu tố đời tư càng phát triển thì tính chất tiểu thuyết càng tăng, ngược lại yếu
tố lịch sử dân tộc càng phát triển thì chất sử thi càng đậm đà.
Nét tiểu biểu thứ hai làm cho tiểu thuyết khác với truyện thơ, trường ca,
thơ trường thiên và anh hùng ca là chất văn xuôi, tức là một sự tái hiện cuộc
sống, không thi vị, lãng mạn hoá, lí tưởng hoá. Tiểu thuyết hấp thụ vào bản
thân nó mọi yếu tố ngổn ngang bề bộn của cuộc đời.
Thứ ba, cái làm cho nhân vật tiểu thuyết khác với các nhân vật sử thi,
nhân vật kịch, nhân vật truyện trung cổ là: nhân vật tiểu thuyết là “con người
nếm trải”, tư duy chịu khổ đau, dằn vặt của cuộc đời, trong khi các nhân vật
kia thường là nhân vật hành động. Tiểu thuyết miêu tả nhân vật như con
người đang biến đổi trong hoàn cảnh, con người đang trưởng thành do cuộc
đời dạy bảo.
Thứ tư, thành phần chính chủ yểu của tiểu thuyết không phải chỉ là cốt
truyện và tính cách nhân vật như ở truyện và truyện ngắn trung cổ. Ngoài hệ
thống sự kiện, biến cố và những chi tiết tính cách, tiểu thuyết miêu tả suy tư
của nhân vật về thế giới, về đời người, phân tích cặn kẽ các diễn biến tình
cảm, trình bày tường tận tiểu sử của nhân vật, mọi chi tiết mối quan hệ giữa
người với người.
Thứ năm, tiểu thuyết xoá bỏ khoảng cách về giá trị giữa người trần
thuật và nội dung trần thuật của anh hùng ca, để miêu tả hiện thực như cái
hiện tại đương thời của người trần thuật. Chính đặc điểm này làm cho tiểu
8
thuyết trở thành một thể loại dân chủ, cho phép người trần thuật có thể có thái
độ thân mật, thậm chí suồng sã đối với nhân vật của mình.
Cuối cùng, với các đặc điểm đã nêu, tiểu thuyết là thể loại văn học có
khả năng tổng hợp nhiều nhất các khả năng nghệ thuật của các thể loại văn
học khác. Chính hiện tượng tổng hợp trên đã làm cho thể loại tiểu thuyết luôn
vận động.
1.1.2. Bối cảnh đương đại của tiểu thuyết Việt Nam
Sau 1975, hoà bình được lập lại, cuộc sống lại trở về với muôn mặt đời
thường, con người lúc này phải đối mặt với những biến động khó khăn đầy thử
thách của thời kỳ hậu chiến. Cuộc sống không hề giản đơn, xuôi chiều mà phức
tạp, đa sự hơn nhiều. Với sự đổi thay trên nhiều lĩnh vực, cũng làm cho tự thân
văn học có những khám phá, tìm tòi mới khi đi vào phản ánh những ngổn
ngang bề bộn của cuộc sống đương đại. Đúng như lời nhận xét của Nguyễn
Khải “chiến tranh ồn ào, náo động mà lại có cái yên tĩnh giản dị của nó, hoà
bình mà chứa chất bao nhiêu sóng ngầm, bao nhiêu gió xoáy bên trong”.
Cũng như bao sự đổi mới khác, đổi mới trong văn học là một cuộc đấu
tranh biện chứng lâu dài giữa cài cũ và cái mới. Nhưng cũng phải khẳng định
rằng Đại hội VI (1986) là sự kiện quan trọng có tác động lớn lao đến công cuộc
đổi mới toàn diện trên đất nước ta trong đó có văn học. Đổi mới văn học bao
giờ cũng bắt nguồn từ những đòi hỏi khách quan của cuộc sống xã hội và cũng
chính bản thân văn học.
Sau Đại hội lần VI, vai trò, nhiệm vụ, chức năng của báo chí, của văn
học nghệ thuật đã được nhìn nhận lại và khẳng định trước sự chuyển biến
mạnh mẽ của đời sống. Trong báo cáo chính trị của Đảng có nêu “không có
hình thái tinh thần nào có thể thay thế được văn học nghệ thuật trong việc xây
dựng tình cảm lành mạnh, tác động sâu sắc vào việc đổi mới nếp sống, nếp
nghĩ của con người... các sản phẩm của văn học nghệ thuật vừa là món ăn tinh
thần không thể thiếu của đời sống con người và là món thuốc đặc hiệu nâng
cao tình cảm con ngươi”. Cùng với việc nhận thức đúng đắn vai trò, nhiệm
9
vụ, chức năng quan trọng của văn học, Đảng cũng hết sức quan tâm đến điều
kiện sáng tác, điều kiện đời sống của anh chị em văn nghệ sĩ. Đặc biệt tư
tưởng chỉ đạo “nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật” của Đảng, đã tạo cho
văn nghệ sĩ sự hồi sinh mới. Văn học sau 1985 nói chung và văn xuôi sau đổi
mới nói riêng phải gánh trên vai một trọng trách hết sức nặng nề. Đó là việc
tìm ra những vấn đề trở thành nhu cầu bức bách của cuộc sống, của con người
để giải quyết.
Bên cạnh nhiệm vụ tiếp tục đề cao cái mới, ca ngợi cái tốt, nhà văn
được phép đào xới sâu hơn những mặt trái của xã hội, được khuyến khích chỉ
ra những hiện tượng tiêu cực trong đời sống, trong bộ máy nhà nước bị gác
lại, bị tạm giấu đi, nay đến thời kỳ này những hiện tượng đó bị dồn lại, cộng
thêm những tiêu cực mới gây bất mãn trong nhân dân. Văn học tất yếu trở
thành người phát ngôn cho xã hội, vả lại việc tố cáo cái ác và sự bất công,
những thao thức về tội lỗi và đau khổ của con người vốn rất gắn liền với thiên
chức của văn học.
Qua các trang văn xuôi sau 1985, người đọc đã cảm nhận được sự đau
đớn, xot xa của những số phận khi phải chống chọi với cái ác, cái dung tục
tồn tại dưới mọi trạng thái khác nhau “viết về cái ác cũng là một cách thức
tỉnh nhân tính” (Lê Minh Khuê). Văn học gần đây đã xây dựng được những
hình tượng nhân vật tư sinh động phán xét hành động của mình, tự đối thoại,
lục vấn và cảnh thức chính mình, thể hiện “chủ đề sám hối”. Các nhà văn
nhường cho nhân vật quyền tự lên án và tự biểu lộ, tự buộc tội và tự giải
thoát, nhân vật vừa là bị cáo vừa là chánh án trước toà án lương tâm. Chính vì
vậy, cái bản ngã được các nhà văn thừa nhận như một chất liệu trong cảm
hứng sáng tạo. Sự gặp gỡ giữa chất liệu ấy với bút pháp hướng nội đã giúp
người đọc cảm nhận được chiều sâu tâm hồn những khoản khắc tự thức tĩnh,
tự hoàn thiện nhân cách của mình.
Hoàn cảnh xã hội thay đổi, tự bản thân mỗi nhà văn cũng có những trăn
trở, suy nghĩ, tự “làm mới” mình trong tư duy nghệ thuật và phương thức biểu
10
hiện. Nguyễn Minh Châu là người tiên phong trong công cuộc đổi mới này,
ông được xem là “người mở đầu tinh anh và tài hoa”. Ngay từ những năm
tháng chiến tranh, nhà văn đã nhiều lần phát hiện ra những bất cập và hạn chế
của văn học cách mạng (văn học kháng chiến). Ông từng tâm sự “Hình như
cuộc chiến đấu sôi nổi hiện nay đang được văn xuôi và thơ ca đôi khi tráng
lên một lớp men trữ tình hơi dày. Cho nên ngắm nghía nó thấy mong manh,
bé bỏng, óng chuốt quá, khiến người ta phải ngờ vực”. Đặc biệt với bài báo
“Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh hoạ” (Báo Văn nghệ số
49,50/1987) Nguyễn Minh Châu đã dũng cản đánh giá lại giai đoạn văn học
1945- 1975, chỉ ra những hạn chế của nó. Đồng thời kêu gọi các văn nghệ sĩ
đổi mới sáng tác, kêu gọi “cởi trói”, mở rộng quyền tự do sáng tác. Sau sự mở
đầu của Nguyễn Minh Châu, hàng loạt các cây bút đương đại đã thể hiện sự
đổi mới sâu sắc toàn diện trên mọi phương diện, như Chu Lai, Bảo Ninh,
Nguyễn Huy Thiệp, Võ Thị Thu Hảo, Tạ Duy Anh, Phan Thị Vàng Anh...
1.1.3. Diện mạo và khuynh hướng của tiểu thuyết Việt Nam đương
đại
Lịch sử nước ta sang trang từ năm 1975 nhưng văn học lại không trùng
khit cùng lịch sử. Nhiều nhà nghiên cứu văn học như: Vũ Tuấn Anh, Mai
Hương, Nguyên Ngọc, Bích Thu... đều có chung ý kiến: Văn học nước ta
những năm 1975- 1980 vẫn tiếp tục vận động, phát triển theo quán tính cũ.
Thể loại tiểu thuyết cũng không nằm ngoài quy luật ấy. Tiểu thuyết Việt Nam
từ 1975- 1985 vẫn mang đậm khuynh hướng sử thi, nghiêng về sự kiện, bao
quát hiện thực trong một diện rộng, với những tác phẩm như: Miền cháy
(Nguyễn Minh Châu), Năm 75 họ đã sống như thế (Nguyễn Trí Huân), Trong
cơn lốc (Khuất Quang Thụy), Cửa gió (Xuân Đức), Đồng bạc trắng hoa xoè
(Ma Văn Kháng)... Phải từ thời điểm những năm 80 mới có một vài dấu hiệu
khởi đầu của sự đổi mới ở các cây bút có tên tuổi trước đây: Bùi Hiển,
Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Nguyễn Trọng Oánh, Ma Văn Kháng,
Nguyễn Quang Sáng, Lê Lựu... Và thực sự từ năm 1986 trở lại đây, văn xuôi
11
mới khởi sắc, đổi mới không phải ở phạm vi của đề tài, chủ đề mà còn ở tư
duy nghệ thuật, cảm hứng sáng tạo, cách diễn đạt...
Trong vận hội mới, trước thị hiếu công chúng mới, với bao chiêm
nghiệm và dự cảm về sự biến đổi của xã hội các nhà văn tỏ ra nhạy cảm hơn.
Nếu như trước đây Lê Lựu tìm đến Người về đồng cói, Mở rừng thì bây giờ là
Thời xa vắng. Nếu như trước kia Ma Văn Kháng là Xa phủ, Đồng bạc trắng
hoa xoè thì bây giờ là Đám cưới không giấy giá thú, Côi cút giữa mảnh đời,
Heo may gió lộng... Và tiếp đến là các tác phẩm của các cây bút như: Chu Lai
với Ăn mày dĩ vãng, Vòng tròn bội bạc, cuộc đời dài lắm, phố, Bảo Ninh với
Thân phận của tình yêu, Trần Huy Quang Nước mắt đỏ, Hồ Anh Thái với
Mười lẻ một đêm, với Cõi người rung chuông tận thế, Tạ Duy Anh với lão
khổ, Đi tìm nhân vật, Thiên thần sám hối, v.v…
Tiểu thuyết là một thể loại lớn của phương thức tự sự, một trong những
thể loại chủ chốt của văn xuôi hiện đại Việt Nam. Kể từ tiểu thuyết "Tự lực
văn đoàn", tiểu thuyết hiện thực phê phán, qua hai cuộc kháng chiến chống
Pháp, chống Mỹ và thời kỳ hậu chiến, tiểu thuyết Việt Nam đã có cuộc hành
trình ngót 3/4 thế kỷ. Trong khoảng thời gian đó, tiểu thuyết đã khẳng định
được vị trí then chốt của mình bằng việc tái hiện những bức tranh hiện thực
đời sống với một quy mô lớn, bao quát được những vấn đề cơ bản của đời
sống xã hội và số phận con người.
Trong suốt 20 năm kể từ khi có phong trào đổi mới văn học Việt Nam
đã vươn mình trỗi dậy với sức sống mãnh liệt, với những thành tựu đáng chú
ý. Chưa bao giờ đời sống văn học lại sôi động và phát triển như thế. Tiểu
thuyết ngày càng chiếm ưu thế và thể hiện một cách đầy đủ, sinh động nhịp
đập của cuộc sống như được bổ sung những gì trước đó còn khuyết thiếu hoặc
phải e dè. Trên hành trình phát triển tiểu thuyết luôn tự khẳng định mình bằng
những thành tựu tạo bước ngoặt lớn nghi dấu ấn đậm nét trong văn học. Trên
tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật” các cây bút hôm nay đã không hề né tránh
12
mà đã dũng cảm nhìn nhận lại hiện thực đã qua, phơi bày mặt trái, tiêu cực
còn bị che khuất.
Tiểu thuyết đánh dấu mốc cho khuynh hướng này là Thời xa vắng của
Lê Lựu. Đây là hiện tượng văn học nổi bật của những năm 1986 - 1987. Tiếp
đó là hàng loạt tiểu thuyết và truyện ngắn xuất hiện trong những năm cuối thế
kỷ 80 và 90 như: Những thiên đường mù của Dương Thu Hương, Lão khổ của
Tạ Duy Anh... Chiến tranh bây giờ cũng đã được nhân thức lại dưới những
góc độ suy tư khác nhau. Bảo Ninh, Chu Lai đầy ắp những dòng viết tê tái,
xót đắng về thân phận con người sau chiến tranh với những ám ảnh, giằng xé,
khắc khoải về những năm tháng đã qua và cuộc sống hiện tại đầy nhọc nhằn,
nghiệt ngã. Lão khổ của Tạ Duy Anh cho thấy cái oái oăm nhất là lịch sử tỏ ra
vô nghĩa với chính nó, lịch sử chỉ là sự thay đổi của các hình thái xã hội chứ
không triệt tiêu được cái xấu và con người bị kẹp giữa hai thể chế. Thể chế
trước là sản phẩm của sự đồng hoá còn thể chế sau là mô hinh thử nghiệm ở
giai đoạn đầu của thời “mở của” mà con người không được trang bị kiến thức
để hiểu và “lựa” theo chiều. Đọc những trang viết của Nguyễn Huy Thiệp ta
có cảm giác như nổi buồn cắn xé trong từng chữ, sự tha hoá về nhân cách, sự
băng hoại, xuống cấp về đạo đức ngày càng trở nên bức bối (Tướng về hưu,
Không có vua)... Quả thật, những tác phẩm giai đoạn này cho dù hư cấu
nhiều đi nữa cũng chỉ nhằm phơi bày phê phán hiện thực một cách trần trụi,
cay độc mà lạnh tanh. Điều mà tác giả muốn nói phải chăng là chúng ta cần
xác định mình đang ở đâu? thực trạng xã hội như thế nào? Từ đó dự báo
những vấn đề đặt ra cần giải quyết, cần khẳng định, phải vạch trần những
hiện tượng tiêu cực cũng là một hành động tích cực. Đấy không phải là bôi
đen, bóp méo mà là chấp nhận thực tế, bóc trần u nhọt, mổ xẻ và cắt bỏ nó
trong sự đau đớn tột cùng.
Tiếp tục hướng tiếp cận đời sống trên bình diện đời tư, thế sự được mở
ra từ những năm 80 của thế kỷ XX, nhiều cây bút đã đi sâu thể hiện mọi khía
cạnh của đời sống cá nhân và những quan hệ thế sự đan xen trong cuộc sống
13
đời thường đầy những đa đoan phức tạp. Chính vì vậy, bên cạnh giá trị hiện
thực lớn lao mà "tấm gương lớn" tiểu thuyết phản chiếu lại, một trong những
thành tựu nổi bật của tiểu thuyết thời kỳ đổi mới là đã khắc họa thành công
những số phận cá nhân. Cũng vẫn là người lính, người mẹ, người vợ, nghệ sĩ,
trí thức, nông dân... nhưng giờ đây họ được soi rọi từ nhiều góc độ khác nhau,
được đặt vào trong nhiều vòng quay của cuộc đời, kể cả những vòng xoáy
nghiệt ngã nhất. Bằng cách ấy, các nhà tiểu thuyết đã gửi gắm được nhiều
thông điệp nghệ thuật mang ý nghĩa triết lý nhân sinh, mở ra nhiều khuynh
hướng đối thoại đa chiều... Không thỏa hiệp, không khoan nhượng với cách
nhìn nhận con người bằng cái nhìn đơn giản, một chiều, chỉ thấy mặt tốt đẹp,
mặt lý tưởng, các nhà tiểu thuyết đương đại đã đặt nhân vật vào vòng xoay
nghiệt ngã của cuộc đời với đầy đủ các sắc màu, các cực đối lập: nhân tính và
phi nhân, đạo lý và thất đức, bản ngã và phi bản ngã... và cũng không né tránh
những mặt khuất lấp của cuộc đời, kể cả "góc tăm tối cuối cùng".
Về hình thức nghệ thuật, tiểu thuyết thời kỳ đổi mới có nhiều thể
nghiệm và tìm tòi theo chiều hướng hiện đại hoá. Nếu như trước đây, các nhà
tiểu thuyết hướng tới những bức tranh hiện thực hoành tráng thì giờ đây họ
"trở về xem xét con người Việt Nam một cách sáng tỏ và để đào xới vào nó
sâu hơn" (Nguyễn Minh Châu), "phải viết về một cái gì đó của con người, cho
con người" (Xuân Cang).
Sự chuyển biến của tiểu thuyết là xoá bỏ sự ám ảnh của chủ nghĩa đề
tài. Hiện thực chỉ là cái nền cho sự diễn biến của những cuộc đời, những số
phận, những trạng thái tinh thần ẩn mật của bản ngã. Điều này càng khẳng
định vị trí, vai trò “cột sống” của tiểu thuyết trong nền văn học, nó “quyết
định căn cốt một diện mạo văn học”.
1.1.4.
Thành tựu của tiểu thuyết Việt Nam đương đại và những
cảm nhận chung của giới nghiên cứu
Bakhtin đã nói “Tiểu thuyết là thể loại văn chương duy nhất đang biến
chuyển và chưa định hình. Những lực cấu thành thể loại còn đang hoạt động
14
trước mắt chúng ta, thể loại tiểu thuyết ra đời và trưởng thành dưới ánh sáng
thanh thiên bạch nhật của lịch sử. Nòng cốt thể loại của tiểu thuyết chưa hề
rắn lại và chúng ta chưa hề dự đoán trước khả năng uyển chuyển của nó”. Vì
thế các nhà lí luận phương tây, Trung Quốc và Việt Nam tuỳ theo từng góc
nhìn và hoàn cảnh phát biểu, khi thì nhấn mạnh đặc điểm này khi thì nhấn
mạnh đặc điểm kia của tiểu thuyết.
Đã có nhiều lời bàn sâu sắc về tiểu thuyết từ Hêghen, Biêlinxki đến
Bakhtin... Hêghen gọi tiểu thuyết là “Sử thi tư sản hiện đại”. Biêlinxki gọi
tiểu thuyết là “Sự tái hiện hiện thực với sự thực trần trụi của nó” “là xây
dựng một bức tranh toàn vẹn, sinh động và thống nhất”.
Từ những năm 70 của thế kỉ XX, ý kiến về tiểu thuyết của M.Bakhtin
đã có ảnh hưởng ở nhiều nước trên thế giới. M.Bakhtin cho rằng: Thể loại là
nhân vật chính của quá trình lịch sử văn học chứ không phải trào lưu trường
phái hay phương pháp sáng tác, bởi vì thể loại là trí nhớ siêu cá nhân của
nghệ thuật, do đó mỗi thể loại như thế có gốc gác như trước để lại dấu ấn cho
sau này và mỗi thể loại như vậy nó như lưu giữ một thái độ thẩm mỹ đối với
hiện thực, một cách cảm thụ và nhìn nhận thế giới theo hướng nguyên tắc của
chính nó. Trước tiên tiểu thuyết là sản phẩm tinh thần tiêu biểu nhất của thời
đại mới. Bởi vì tiểu thuyết thể hiện được tư tưởng duy văn học mới gắn với
thời hiện tại tư duy này gắn với một thứ triết học mới nhân bản về con người,
nhìn nhận con người như những cá thể độc lập, những con người cá nhân tồn
tại với bản ngã của nó và với sự đối thoại với những bản ngã khác. Ở phương
diện này tiểu thuyết hiện ra như một thể loại đặc biệt dân chủ. Tiểu thuyết là
thể loại ở thời hiện tại một thể loại đang vận động và phát triển. Tiểu thuyết
tồn tại với tư cách như một thể loại chủ đạo của văn học hiện đại, nó giễu nhại
và thu hút các thể loại khác vào nó. Tính tự phê phán là đặc điểm tuyệt vời
của tiểu thuyết. Thứ đến, ngôn ngữ tiểu thuyết là ngôn ngữ có tính đa thanh.
Các lớp ngôn ngữ soi sáng lẫn nhau, bổ sung cho nhau, ngôn ngữ dân tộc, thổ
ngữ, phương ngữ, từ nghề nghiệp... do đó mà thiết lập một quan hệ mới giữa
15
ngôn ngữ và thế giới hiện thực. Bakhtin thường so sánh tiểu thuyết với sử thi
(sử thi thời gian và quá khứ hoàn thành, tiểu thuyết toạ độ thời gian là thời
hiện tại giữa trần thuật và đối tượng có khoảng cách rất gần, cho phép người
trần thuật có thể hiểu được nhân vật bằng chính kinh nghiệm sống của mình.
Cuối cùng ông cho rằng: Nhân vật tiểu thuyết là nhân vật không trùng khít
với chính nó: con người có thể cao hơn thân phận hoặc có thể nhỏ bé hơn tính
người của mình.
Ở nước ta giai đoạn trước Cách mạng tháng 8 năm 1945, người bàn về
tiểu thuyết sớm nhất có lẽ là Phạm Quỳnh. Trong Bàn về tiểu thuyết đăng trên
Nam Phong (1921), Phạm Quỳnh viết: “tiểu thuyết là loại truyện bằng văn xuôi
đặt ra để đánh giá tình tự người ta, phong tục xã hội hay là những sự tích lạ đủ
làm cho người đọc có hứng thú”. Sau Phạm Quỳnh có Trọng Khiêm tác giả của
Kim Anh Lệ sử (1924) trong lời tựa có so sánh sự khác biệt giữa tiểu thuyết ta
với tiểu thuyết Tàu, với tiểu thuyết phương Tây: Thứ nhất, Tiểu thuyết Tàu là
mấy quyển của các cụ ta ngày xưa tả tình nhiều mà tiểu thuyết phương Tây tả
cảnh nhiều hơn tả tình; Thứ hai, Trong tiểu thuyết ta thường có những cảnh
hoang đường, tiểu thuyết phương Tây phần nhiều nói về hiện thực; Thứ ba, Ta
hay nói những chuyện vua chúa, thánh thần kết thúc có hậu mà phương Tây thì
chuyện gì cũng nói, nói thì trần thuyết rõ ràng, minh bạch.
Sau 1945, các nhà lý luận (cả hai miền Nam Bắc) như Thanh Lãng,
Nguyễn Văn Trung, Phan Cự Đệ, Trần Đình Sử, Hoàng Ngọc Hiến, các nhà
văn như Nguyễn Đình Thi, Tô Hoài... là những người quan tâm nhiều đến tiểu
thuyết. Thanh Lãng cho rằng: “Tiểu thuyết (Roman) là một truyện tương đối
dài, bịa đặt ra óc tưởng tượng về một trạng thái có thực của cuộc sống loài
người, đặt câu chuyện vào một khung cảnh xã hội có những đường nét màu
sắc quen thuộc”. Nhà văn Nguyễn Công Hoan đưa ra một định nghĩa khá độc
đáo: “Tôi không hiểu các nhà lý luận văn học giải nghĩa tiểu thuyết và nhà
tiểu thuyết là gì, theo tôi hay nghĩ nôm na thì tiểu thuyết là một truyện bịa y
như thật. Nhà tiểu thuyết là người biết bịa truyện”. Nguyễn Đình Thi cũng
16
bàn về tiểu thuyết như sau: “Tiểu thuyết đó là một trong những sáng tạo kỳ
diệu của loài người, đó là một đồ dùng, một vũ khí của con người để tìm hiểu
chinh phục dần thế giới và để tìm hiểu nhau và sống với nhau”, người viết
tiểu thuyết vẽ lên hình ảnh của một sự vật như một hoạ sĩ đi vào trong tâm
hồn của các con người mà diễn đạt những tình cảm vô hình như một nhà thơ
hoặc như một nhạc sỹ. Người viết tiểu thuyết điều khiển các nhân vật và cho
các nhân vật va chạm với nhau như một người viết kịch hoặc một đạo diễn
điện ảnh. Người viết tiểu thuyết kể lại các sự việc như một phóng viên và tìm
hiểu đánh giá sự việc như một nhà bình luận. Có thể nói, trong tiểu thuyết có
đủ các loại văn và có cả các ngành nghệ thuật khác nữa”.
Văn xuôi từ những năm tám mươi của thế kỷ XX chú ý nhiều về
sự mưu cầu hạnh phúc cá nhân và nổi khát khao tình yêu đôi lứa... Dấu
hiệu chủ yếu của việc dân chủ hoá nền văn học là sự dân chủ hoá trong
quan niệm về con người, trong cách nhìn nhận con người. Các nhà văn
quan tâm nhiều đến “cốt cách tâm lý, thế giới bên trong, những động cơ
tiềm ẩn cùng những phản ứng trước những biến đổi thời thế” trong đó “ý
hướng đi sâu vào thế giới nội tâm để khám phá chiều sâu tâm linh nhằm
nhận diện hình ảnh con người đích thực là ý hướng có triển vọng của một
nền văn học dân chủ”.
Là người trong cuộc và trực tiếp góp phần ít nhiều tạo nên thành tựu
của tiểu thuyết Việt Nam đương đại, nhà văn Nguyễn Quang Thân bộc bạch
“chưa bao giờ văn xuôi phát triển mạnh mẽ như bây giờ, chưa bao giờ chúng
ta in nhiều và dám chịu trách nhiệm như bây giờ, chưa bao giờ nhà văn được
thành thật như bây giờ”. Nguyễn Kiên cũng đánh giá: “Một nét nổi bật là
những năm gần đây văn xuôi của ta đã chú ý đến con người, đặt con người
vào trung tâm tác phẩm. Con người với tư cách cá nhân, đồng thời là thành
viên của xã hội, con người bình thường, con người của đời thường” [45,5].
17
Theo Nguyên Ngọc “Từ sau cái mốc 1991, các nhà văn đã không chịu
hoàn toàn im thối lui một bề. Họ đã cựa quậy, để dần dần tạo nên một bước
đột phá khác... Trong tiểu thuyết, đáng chú ý là các tác phẩm của Nguyễn
Xuân Khánh, Châu Diên, Nguyễn Việt Hà, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái”...
Nhiều tác phẩm đã gặt hái được nhiều thành công. Cùng với đó cũng xuất
hiện các bài nghiên, cứu phê bình về mảng văn học này. Có thể kể đến các bài
viết: Văn học trong sự nghiệp đổi mới (BCH Hội nhà văn Việt Nam) [45,4],
cảm nhận về một nền văn nghệ mới đang ra đời (Phong Lê) [45,4], nghĩ về
một su thế đổi mới trong đời sống văn chương hiện nay (Trần Thanh Đạm)
[45,5], v.v…
Nhìn chung, cùng với những đột phá về mặt lý luận thể loại, trong văn
học sau 1975, tiểu thuyết là một thể loại thực sự thành công trên nhiều lối
viết, cách viết mới mẻ, đa dạng, đa chiều, phù hợp với thực tế bề bộn ngổn
ngang và đầy biến động của xã hội Việt Nam đương đại. Các kỹ thuật viết tiểu
thuyết được chú trọng như dòng ý thức, sự thay đổi ngôi kể và điểm nhìn trần
thuật, tính chất đa thanh của ngôn ngữ, tính chất mở của cấu trúc tác phẩm, sự
nhạt nhoà của nhân vật... Đặc biệt sau 1990 các tác giả luôn có ý thức tìm tòi
đổi mới nhất là về mặt nghệ thuật. Nhiều tiểu thuyết đã nỗ lực thể hiện được
những thể nghiệm tuy còn khó đọc, mới lạ... với người tiếp nhận nhưng ít nhất
nó cũng đã báo hiệu một hệ ý thức mới về thể loại mặc dù cảm giác đầu tiên có
gây sốc và vượt ra khỏi khuôn khổ của tiểu thuyết quen thuộc, xác lập mối
quan hệ mới giữa văn chương và hiện thực. Đây cũng chính là cảm nhận chung
của giới phê bình về tiểu thuyết Việt Nam đương đại.
1.2. Vị trí của tiểu thuyết Tạ Duy Anh trong tiểu thuyết Việt Nam
đương đại
Tạ Duy Anh tên thật là Tạ Viết Đãng, sinh 09/09/1959 tại làng Đồng
Trưa (tên chữ là Cổ Hiền, sau đổi thành An Hiền), xã Hoàng Diệu, huyện
Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây (nay thuộc Hà Nội). Ngoài bút danh Tạ Duy Anh,
18
ông còn nhiều bút danh khác: Lão Tạ, Chu Quý, Quý Anh, Bình Tâm. Tốt
nghiệp bằng cử nhân văn tại trường viết văn Nguyễn Du và được giữ lại
trường giảng dạy bộ môn sáng tác đến năm 2000, ông đã từng làm cán bộ
giám sát chất lượng bê tông tại nhà máy thuỷ điện Hoà Bình, làm trung sĩ bộ
binh ở Lào và hiện ông là biên tập viên văn học, Nhà xuất bản Hội nhà văn
Việt Nam.
Với lương tâm của một người cầm bút, cố gắng phác hoạ bức tranh của
đời sống hiện đại. Tạ Duy Anh luôn tìm cách trả lời câu hỏi: Tôi là ai? do
chính mình nêu ra ở nhiều góc cạnh khác nhau, khi là lời của chính ông
nhưng cũng có khi đó là lời của một nhân vật mà ông đã gửi gắm những suy
tư, trăn trở từ những trải nghiệm cuộc đời mình
Tôi từ cái bóng của anh
Dệt thêu ngôn ngữ tôi thành ra tôi
Ông chẳng ngại bộc bạch chính mình “Tôi không được chuẩn bị mảy
may để trở thành nhà văn. Trừ cụ nội bốn đời của tôi có ít chữ nghĩa nhưng
lánh tục, còn lại tôi không được thừa hưởng truyền thống văn chương như
mọi người thường hổi tôi về điều đó. Thậm chí, tôi còn thừa hưởng cái không
ai muốn: ấy là sự thất học” [2,171]; “Tôi sinh ra ở một vùng quê hẻo lánh,
thấm đẫm không khí thù hận, cơ thể còi cọc, mặt mũi đen đủi, xấu xí, sống
với người cha “rắn như thép” [2,171]. “Tôi biến thân xác của tôi thành cái vỏ
ốc để bao bọc toà lâu đài tôi xây bằng trí tưởng tượng. Và chỉ khi lọt thỏm
trong thế giới của tôi, tôi mới không cảm thấy sợ đủ thứ, không bị ai chòng
ghẹo, nhạo báng, vô hiệu hoá mọi ngăn cấm của cha tôi. Tôi hoàn toàn tự do
trong vương quốc do tôi tạo ra” [2,3]. Và “Bi kịch lớn nhất đời tôi là sự chối
bỏ, từ trong ý thức sâu thẳm vùng đất mình sinh ra và lớn lên. Tôi chạy trốn
nó như chạy trốn cái chết, thường khiến tôi cô đơn ngay từ buổi chưa đi học,
khi buổi chiều ẩm đạm nào đó, một ai đó được cả làng đưa ra đồng, vùi xuống
ba thước đất và thế là dường như họ chưa hề có mặt trên cõi đời này” [2,159].
19
Những dòng tự thuật chân thành hay một bức chân dung tự hoạ giúp
chúng ta cảm nhận và hiểu hơn về Tạ Duy Anh, người luôn “chất chứa những
trải nghiệm khổ đau”. Với cái tôi “cô đơn”, cô độc bao trùm, để rồi hàng ngày
hàng giờ “cái tôi” cô đơn ấy phải luôn đối diện với chính mình, đối diện với
sự bất ổn định của hiện tại. Phải chăng vì vậy, nên “thế giới trong tác phẩm
của ông vừa mang dấu ấn thế giới hiện tại của con người đương đại vừa giống
như một thế giới không có ở đâu cả (nowhere I and) với sự mù mờ của những
tên địa danh và sự biến mất của ký hiệu thời gian”. Tưởng tượng ra một thế
giới khách thể để được bình yên đi tìm câu trả lời cho câu hỏi: tại sao nó thế
này mà không thế kia ? Tạ Duy Anh ngày càng đào sâu vào những vực thẳm
tội lỗi, tìm hiểu những biến thế của tội ác, thăm dò từng nguồn phát sinh để
thử trả lời.
1.2.1. Tạ Duy Anh một hiện tượng nổi bật của văn xuôi Việt Nam
đương đại
Giới nghiên cứu, phê bình xem Tạ Duy Anh là người đã phát đi tín hiệu
báo một dòng văn học mới đang hình thành “có một dòng văn học bước qua
lời nguyền”.
Xuất hiện khi những đột phá về nhận thức xã hội, quan niệm văn
chương, sự đổi mới lối viết, các thể nghiệm hình thức trần thuật không còn
quá lạ lẫm sau một loạt những tiếng vang của thế hệ “làn sóng thứ nhất”
Dương Thu Hương, Lê Lựu, Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh, Phạm Thi Hoài...,
Tạ Duy Anh không được phép lặp lại những người đi trước và càng không
được phép lặp lại chính mình. Chính trong những khó khăn đó bản lĩnh và tài
năng của ông càng được bộc lộ rõ nét hơn. Ông liên tiếp cho ra đời những tác
phẩm gây chấn động dư luận kể từ khi xuất hiện cho tói những năm gần đây.
Và thực sự khi nói đến văn chương sau đổi mới, người ta không thể không
nhắc đến Tạ Duy Anh như một hiện tượng văn học trẻ đã có những thể
nghiệm tìm tòi làm đảo lộn các kinh nghiệm cũ, thay đổi lối nhìn đơn giản
20