Hình tượng nghệ thuật trong tập thơ hoa ngày thường chim báo bão của chế lan viên

  • pdf
  • 62 trang
Kho¸ luËn tèt nghiÖp

Tr­êng §HSP Hµ Néi 2

LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình triển khai đề tài “Hình tượng nghệ thuật trong tập
thơ Hoa ngày thường - Chim báo bão của Chế Lan Viên”, tác giả khoá luận
đã nhận được sự giúp đỡ của các thầy cô giáo trong khoa Ngữ Văn, các thầy
cô trong tổ Văn học Việt Nam và đặc biệt là ThS. GVC Vũ Văn Ký - người
hướng dẫn trực tiếp.
Tác giả khoá luận xin được bày tỏ lòng biết ơn và gửi lời cảm ơn trân
trọng nhất tới các thầy cô.

Hà Nội, ngày 15 tháng 04 năm 2010
Tác giả khoá luận

Bùi Thị Huyền Trang

Bïi ThÞ HuyÒn Trang

1

K32A Khoa Ng÷ V¨n

Kho¸ luËn tèt nghiÖp

Tr­êng §HSP Hµ Néi 2

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan:
Khoá luận “Hình tượng nghệ thuật trong tập thơ Hoa ngày thường Chim báo bão của Chế Lan Viên” là kết quả nghiên cứu của riêng tôi, có
tham khảo ý kiến của những người đi trước, dưới sự giúp đỡ khoa học của
ThS. GVC Vũ Văn Ký. Khoá luận không sao chép từ một tài liệu, công trình
có sẵn nào.

Hà Nội, ngày 15 tháng 04 năm 2010
Tác giả khoá luận

Bùi Thị Huyền Trang

Bïi ThÞ HuyÒn Trang

2

K32A Khoa Ng÷ V¨n

Kho¸ luËn tèt nghiÖp

Tr­êng §HSP Hµ Néi 2
MỤC LỤC

Mở đầu

5

1. Lí do chọn đề tài

5

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

6

3. Mục đích nghiên cứu

8

4. Nhiệm vụ nghiên cứu

8

5. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

9

6. Phương pháp nghiên cứu

9

7. Đóng góp của khoá luận

9

8. Bố cục khoá luận

9

Nội dung

10

Chương 1. Chế Lan Viên và con đường nghệ thuật

10

1.1. Tiểu sử nhà thơ Chế Lan Viên

10

1.2. Con đường nghệ thuật của Chế Lan Viên

12

1.2.1. Chặng đường thơ Chế Lan Viên trước Cách mạng tháng

13

Tám 1945
1.2.2. Chặng đường thơ Chế Lan Viên những năm kháng chiến

14

chống Pháp và chống Mỹ
1.2.3. Chặng đường thơ Chế Lan Viên sau 1975 và những năm

16

cuối đời
Chương 2. Quan niệm nghệ thuật và sự chi phối của quan

18

niệm nghệ thuật trong thơ Chế Lan Viên
2.1. Thuật ngữ “ Quan niệm nghệ thuật”

18

2.2. Quan niệm nghệ thuật và sự chi phối của quan niệm nghệ

20

thuật trong thơ Chế Lan Viên
2.2.1. Giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám 1945

20

2.2.2. Giai đoạn hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ

23

Bïi ThÞ HuyÒn Trang

3

K32A Khoa Ng÷ V¨n

Kho¸ luËn tèt nghiÖp

Tr­êng §HSP Hµ Néi 2

2.2.3. Sau 1975 và những năm cuối đời

25

2.2.4. Kết luận

28

Chương 3. Hình tượng nghệ thuật trong tập thơ Hoa ngày

29

thường - Chim báo bão
3.1. Thuật ngữ “Hình tượng nghệ thuật”

29

3.2. Vài nét về tập thơ “Hoa ngày thường - Chim báo bão”

31

3.3. Hình tượng nghệ thuật trong tập thơ “Hoa ngày thường -

33

Chim báo bão”
3.3.1. Hình tượng Tổ quốc, Dân tộc

33

3.3.2. Hình tượng Đảng, Bác Hồ

37

3.3.3. Hình tượng Nhân dân

39

3.3.4. Hình tượng người chiến sĩ

44

3.3.5. Hình tượng quân xâm lược

45

3.3.6. Hình tượng thiên nhiên

47

3.3.7. Hình tượng “Cái tôi trữ tình” nhà thơ

50

3.4. Một số hình thức nghệ thuật biểu hiện của hình tượng

52

nghệ thuật trong tập thơ “Hoa ngày thường - Chim báo bão”
3.4.1. Thể thơ

52

3.4.2. Kết cấu thơ

53

3.4.3. Hình ảnh thơ

53

3.4.4. Giọng điệu

54

3.4.5. Ngôn ngữ thơ

55

Kết luận

57

Tài liệu tham khảo

59

Bïi ThÞ HuyÒn Trang

4

K32A Khoa Ng÷ V¨n

Kho¸ luËn tèt nghiÖp

Tr­êng §HSP Hµ Néi 2
MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
Chế Lan Viên xuất hiện trên thi đàn Việt Nam như “một quầng lửa”
rực sáng với sự nghiệp sáng tác gồm hơn một chục tập thơ, hàng nghìn trang
văn bút kí, phê bình, tiểu luận. Đời thơ Chế Lan Viên trải nhiều giai đoạn,
nhiều khúc quanh. Ông từng là một “thi sĩ - lãng mạn”, một “thi sĩ - chiến sĩ”
và cuối đời ông là một “thi sĩ - triết nhân”, khép mình lại, ẩn mình đi, lấy
ngay cái bóng của mình mà đối diện đàm tâm về đời, về thế. Bao quát hơn,
ông là một nhà thơ - con người suốt đời đi tìm khuôn mặt mình để rồi cuối
cùng, Chế Lan Viên đã đi qua và trụ lại trong lịch sử văn học như một thi
nhân đích thực.
Một nghệ sĩ tài năng không thể thiếu phong cách, như mỗi ngôi sao lấp
lánh một thứ ánh sáng riêng. Chế Lan Viên cũng đã để lại trong thơ hiện đại
dấu ấn của một phong cách và quan niệm nghệ thuật độc đáo, đặc sắc. Chính
điều này đã chi phối đến việc xây dựng thế giới hình tượng nghệ thuật trong
các tập thơ qua từng giai đoạn của lịch sử. Trong đó đặc biệt phải kể đến tập
Hoa ngày thường - Chim báo bão – đây là một bước phát triển mới của thơ
Chế Lan Viên. Với Hoa ngày thường - Chim báo bão Chế Lan Viên đã làm
một “cuộc chuyển quân”, tiến sát tới những tuyến đầu của cuộc chiến đấu của
dân tộc và thời đại.
Trước cơn bão lớn của thời đại, mạch trữ tình và suy tưởng trong thơ
Chế Lan Viên được dồn tụ lại, làm dậy lên những cơn sóng lớn, vang lên
những hợp âm dữ dội của một tiếng thơ chiến đấu, trong những năm kháng
chiến chống Mỹ cứu nước, thơ đánh Mỹ là mặt trận chính của thơ Chế Lan
Viên. Chính ở đây, Chế Lan Viên đã thể hiện sức chiến đấu năng nổ, tính
nhạy bén, chiều sâu của tư duy nghệ thuật. Cũng chính từ đây Chế Lan Viên
đã dồn nhiều tâm huyết, thể hiện những tìm tòi và tạo được một phong cách

Bïi ThÞ HuyÒn Trang

5

K32A Khoa Ng÷ V¨n

Kho¸ luËn tèt nghiÖp

Tr­êng §HSP Hµ Néi 2

đặc sắc để đạt đến những bài thơ có vị trí xứng đáng trong những thành tựu
quan trọng của nền thơ chống Mỹ. Hoa ngày thường - Chim báo bão đã góp
phần tạo nên “những cơn sóng lớn”, “những hợp âm dữ dội”, trong phong
cách thơ của Chế Lan Viên.
Việc tìm hiểu hệ thống hình tượng nghệ thuật trong tập Hoa ngày
thường - Chim báo bão sẽ giúp chúng ta có cái nhìn sâu sắc, toàn vẹn hơn về
tập thơ và phong cách, quan niệm nghệ thuật của nhà thơ Chế Lan Viên trong
cuộc chiến tranh vĩ đại của dân tộc, đặc biệt là cuộc kháng chiến chống Mỹ
cứu nước.
Không chỉ vậy, Chế Lan Viên còn là một tác giả có vị trí quan trọng
của nền văn học Việt Nam hiện đại nên những tác phẩm thơ của ông được
đưa vào giảng dạy ở hầu hết các cấp học, bậc học. Do đó, việc nghiên cứu,
tìm hiểu thơ Chế Lan Viên ở khía cạnh hình tượng nghệ thuật, cụ thể là tập
thơ Hoa ngày thường - Chim báo bão sẽ góp phần thiết thực vào việc học tập
và giảng dạy môn Ngữ Văn trong nhà trường.
Đó là những lý do khiến chúng tôi lựa chọn đề tài khoá luận “Hình
tượng nghệ thuật trong tập thơ Hoa ngày thường - Chim báo bão của Chế
Lan Viên”.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Nghiên cứu và tìm hiểu tập thơ Hoa ngày thường - Chim báo bão của
Chế Lan Viên không phải là vấn đề hoàn toàn mới mẻ. Đi vào khai thác,
nghiên cứu ở một số phương diện khác nhau đã có nhiều bài viết, công trình,
ý kiến xung quanh tập thơ này.
Tác giả Hà Minh Đức ở bài viết “Hoa ngày thường - Chim báo bão”
bước phát triển mới của một phong cách thơ” đăng trong Nhà văn và tác
phẩm, Nxb Văn học, 1971 cũng khẳng định sự phát triển trên con đường sáng

Bïi ThÞ HuyÒn Trang

6

K32A Khoa Ng÷ V¨n

Kho¸ luËn tèt nghiÖp

Tr­êng §HSP Hµ Néi 2

tác thơ của Chế Lan Viên ở nhiều khía cạnh khác nhau trong tập thơ Hoa
ngày thường - Chim báo bão.
Tác giả Mai Quốc Liên trong bài viết “ Chế Lan Viên qua tập thơ “Hoa
ngày thường - Chim báo bão” đăng trong Nhà thơ, cơn bão và những cánh
hoa, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1989, đã chỉ ra và khẳng định những giá
trị nội dung, nghệ thuật của tập thơ.
Tác giả Vũ Tuấn Anh trong Chế Lan Viên về tác gia và tác phẩm, Nxb
Giáo dục, Hà Nội, 2003 với bài viết “Thơ đánh Mỹ của Chế Lan Viên”, nhà
nghiên cứu đã khẳng định: “Hoa ngày thường - Chim báo bão” là một bước
phát triển mới của thơ Chế Lan Viên, từ sắc thái trữ tình đậm nét trong “Ánh
sáng và phù sa”đến chất thời sự, chính trị nổi bật như là một đặc trưng về
phong cách trong “Hoa ngày thường - Chim báo bão” có vẻ như là một sự
chuyển hướng đột ngột”.
Tiến sĩ Nguyễn Thị Bình trong giáo trình Lịch sử Văn học Việt Nam tập
III, Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội, 2007 đã chỉ ra: “Quan hệ giữa mặt đối lập
mà thống nhất, đối lập mà chuyển hoá còn được thể hiện ở mạch ngầm cấu
trúc một bài thơ hay một tập thơ “Hoa ngày thường - Chim báo bão”.
Tác giả Nguyễn Văn Long trong Giáo trình Văn học Việt Nam hiện đại
tập II, Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội, 2008 đã có ý kiến nhận xét về tập thơ
Hoa ngày thường - Chim báo bão của Chế Lan Viên đó là: “Nhà thơ muốn
mình vừa là hầm chông giết giặc, lại vừa là cành hoa mát mắt cho đời”.
Giáo sư, Tiến sĩ Trần Đình Sử với bài viết “Chế Lan Viên - bản lĩnh
một nhà thơ lớn” in trong Tuyển tập mười lăm năm tạp chí văn học và tuổi
trẻ tập một, Nxb Giáo dục Hà Nội, 2008 cho rằng: “Hoa ngày thường - Chim
báo bão” đánh dấu bước trỗi dậy đổi mới của thơ Chế Lan Viên gắn liền với
ý thức “cái tôi” của mình”.

Bïi ThÞ HuyÒn Trang

7

K32A Khoa Ng÷ V¨n

Kho¸ luËn tèt nghiÖp

Tr­êng §HSP Hµ Néi 2

Các tài liệu dẫn trên cho thấy nhiều tác giả, nhà nghiên cứu đã tìm hiểu
tập thơ Hoa ngày thường - Chim báo bão ở những khía cạnh khác nhau. Điều
đó tạo điều kiện thuận lợi giúp người đọc tiếp cận tập thơ ở nhiều hướng, cả
về nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật.
Mặc dù vậy, các nhà nghiên cứu tùy theo quan niệm và sở thích cá
nhân mới chỉ đề cập đến một khía cạnh, một vấn đề trong Hoa ngày thường Chim báo bão.
Kế thừa ý kiến của những người đi trước, chúng tôi đi sâu hơn vào hình
tượng nghệ thuật trong tập thơ Hoa ngày thường - Chim báo bão, hi vọng sẽ
thấy được những vấn đề sâu sắc và góp phần tìm hiểu sự nghiệp thơ ca của
Chế Lan Viên.
3. Mục đích nghiên cứu
Với đề tài Hình tượng nghệ thuật trong tập thơ Hoa ngày thường Chim báo bão tác giả khoá luận hướng tới các mục đích sau:
Tìm hiểu quan niệm nghệ thuật và sự chi phối của quan niệm nghệ
thuật đến sáng tác thơ ca của Chế Lan Viên.
Khảo sát, tìm hiểu về hình tượng nghệ thuật trong tập thơ Hoa ngày
thường - Chim báo bão.
Từ đó có cái nhìn bao quát về con đường nghệ thuật của Chế Lan Viên
trong kháng chiến chống Mỹ và rộng hơn là trên thi đàn Việt Nam.
Góp phần thiết thực vào việc học tập, giảng dạy môn Ngữ Văn trong
nhà trường.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Khoá luận Hình tượng nghệ thuật trong tập thơ Hoa ngày thường Chim báo bão của Chế Lan Viên có nhiệm vụ sau:
Trình bày khái quát về cuộc đời, con đường nghệ thuật của tác giả Chế
Lan Viên.
Tìm hiểu về quan niệm nghệ thuật của Chế Lan Viên và sự chi phối của
quan niệm nghệ thuật ấy đến thơ của ông.

Bïi ThÞ HuyÒn Trang

8

K32A Khoa Ng÷ V¨n

Kho¸ luËn tèt nghiÖp

Tr­êng §HSP Hµ Néi 2

Tìm hiểu hình tượng nghệ thuật trong tập thơ Hoa ngày thường - Chim
báo bão.

Bïi ThÞ HuyÒn Trang

9

K32A Khoa Ng÷ V¨n

Kho¸ luËn tèt nghiÖp

Tr­êng §HSP Hµ Néi 2

5. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Khoá luận tập trung vào nghiên cứu tập thơ Hoa ngày thường - Chim
báo bão rút từ Chế Lan Viên toàn tập tập I, Nxb Văn học, 2002.
Bên cạnh đó, để làm nổi bật những hình tượng nghệ thuật trong tập thơ
Hoa ngày thường - Chim báo bão khi cần thiết khoá luận còn có sự mở rộng,
liên hệ đến những sáng tác trước và sau của Chế Lan Viên và các nhà thơ khác.
6. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp hệ thống
Phương pháp so sánh đối chiếu
Phương pháp phân tích văn học
7. Đóng góp của khoá luận
Về mặt khoa học: Góp phần tìm hiểu, nghiên cứu tập Hoa ngày thường
- Chim báo bão ở khía cạnh hình tượng nghệ thuật. Thấy được sự chi phối của
quan niệm nghệ thuật đến việc xây dựng hình tượng nghệ thuật trong tập thơ
Hoa ngày thường - Chim báo bão.
Về mặt thực tiễn: Góp phần vào việc giảng dạy và học tập các tác phẩm
thơ của Chế Lan Viên trong nhà trường trung học phổ thông.
8. Bố cục khoá luận
Khoá luận có bố cục ba phần: Mở đầu, nội dung, kết luận.
Mở đầu: 5 trang
Nội dung: 47 trang
Chương 1: Chế Lan Viên và con đường nghệ thuật: 8 trang
Chương 2: Quan niệm nghệ thuật và sự chi phối quan niệm nghệ
thuật trong thơ Chế Lan Viên:11 trang
Chương 3: Hình tượng nghệ thuật trong tập thơ Hoa ngày thường Chim báo bão: 28 trang
Kết luận: 2 trang
Ngoài ra khoá luận còn có mục lục, danh mục tài liệu tham khảo.

Bïi ThÞ HuyÒn Trang

10

K32A Khoa Ng÷ V¨n

Kho¸ luËn tèt nghiÖp

Tr­êng §HSP Hµ Néi 2

NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
CHẾ LAN VIÊN VÀ CON ĐƯỜNG NGHỆ THUẬT

1.1. Tiểu sử nhà thơ Chế Lan Viên
Nhà thơ Chế Lan Viên tên thật là Phan Ngọc Hoan, sinh ngày 23 tháng
10 năm 1920, quê ở xã Cam An, huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị, nhưng suốt
thời niên thiếu đến tuổi trưởng thành lại gắn bó với vùng Bình Định - Quy
Nhơn, nên đây cũng được xem là quê hương thứ hai của nhà thơ. Sinh trưởng
trong một gia đình viên chức nhỏ, cha lại mất sớm nhưng Chế Lan Viên vẫn
được tạo điều kiện theo học ở Quy Nhơn rồi Hà Nội.
Chế Lan Viên làm thơ từ khi còn 12, 13 tuổi, có thơ, truyện ngắn đăng
trên các báo “Tiếng trẻ”, “Khuyến học”, “Phong hoá” từ những năm 19351936. Cùng với Hàn Mặc Tử, Yến Lan, Quách Tấn lập nên nhóm thơ Bình
Định nổi tiếng và tạo một dấu ấn độc đáo cho Thơ mới đương thời. Khi tập
Điêu tàn ra đời năm 1937 Chế Lan Viên mới 17 tuổi và đang là học sinh năm
thứ ba trường trung học Quy Nhơn, đã gây được sự chú ý đặc biệt và đưa thơ
Chế Lan Viên vào trong số những nhà thơ mới hàng đầu.
Năm 1939, Chế Lan Viên ra học tại Hà Nội, rồi vào Sài Gòn làm báo,
ra Thanh Hoá, quay về Huế dạy học. Năm 1942 cho ra đời tập văn Vàng sao
và sau đó viết tập bút ký triết luận Gai lửa.
Chế Lan Viên tham gia Cách mạng tháng Tám tại Quy Nhơn, rồi sau
đó ra Huế tham gia “Đoàn xây dựng” cùng với Hoài Thanh, Lưu Trọng Lư,
Đào Duy Anh viết bài cho báo “Quyết thắng” của Việt Minh Trung Bộ.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Chế Lan Viên hoạt động
văn nghệ, báo chí ở Liên khu Bốn và chiến trường Bình Trị Thiên. Ông được
kết nạp Đảng vào tháng 7 năm 1949 ngay trên quê mẹ Quảng Trị.

Bïi ThÞ HuyÒn Trang

11

K32A Khoa Ng÷ V¨n

Kho¸ luËn tèt nghiÖp

Tr­êng §HSP Hµ Néi 2

Những bài thơ Chế Lan Viên sáng tác trong thời kỳ kháng chiến được
tập hợp trong tập Gửi các anh (in 1955) thể hiện sự chuyển biến quan trọng
trong tư tưởng và nghệ thuật của ông.
Sau năm 1954, nhà thơ trở về sống tại Hà Nội, làm biên tập viên ở Nhà
xuất bản rồi ở báo “Văn học” của hội nhà văn. Chế Lan Viên nhiều năm là ủy
viên Ban chấp hành, Ban thường vụ Ban thư ký Hội nhà văn Việt Nam.
Tập Ánh sáng và phù sa (1960) là một thành công đặc sắc - cái mốc
quan trọng trên đường thơ sau cách mạng của Chế Lan Viên.
Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, thơ Chế Lan Viên đã
đạt nhiều thành tựu mới ở các tập thơ Hoa ngày thường - Chim báo bão
(1967), Những bài thơ đánh giặc (1972), Đối thoại mới (1973) đậm chất
chính luận mang âm hưởng sử thi bên cạnh chất trữ tình đằm thắm của cuộc
sống đời thường.
Từ sau 1975 ông chuyển vào sống ở Thành phố Hồ Chí Minh và tiếp
tục sáng tác các tập thơ Hái theo mùa (1977), Hoa trên đá (1984), Ta gửi cho
mình (1986).
Chế Lan Viên còn là cây bút viết văn xuôi đặc sắc với các tập bút ký
Vàng sao (1942), Thăm Trung Quốc (1963), Những ngày nổi giận (1966)...
Không chỉ thế, các tập tiểu luận, phê bình văn học của ông cũng gây nên tiếng
vang rộng rãi và có tác động tích cực vào đời sống văn học: Vào nghề (1962), Suy
nghĩ và bình luận (1971), Nghĩ cạnh dòng thơ (1981).
Ông là đại biểu Quốc hội từ khoá III đến khoá VII, tham gia các uỷ ban
văn hoá, giáo dục và đối ngoại của Quốc hội, từng có mặt ở nhiều diễn đàn
văn hoá quốc tế, nhất là trong những năm chống Mỹ cứu nước.
Chế Lan Viên mất ngày 19 tháng 6 năm 1989 tại Bệnh viện Thống
Nhất. Lễ truy điệu và hỏa táng được tổ chức vào ngày 26 tháng 6 năm 1989.

Bïi ThÞ HuyÒn Trang

12

K32A Khoa Ng÷ V¨n

Kho¸ luËn tèt nghiÖp

Tr­êng §HSP Hµ Néi 2

Sau khi qua đời những Di cảo thơ của ông được vợ là nhà văn Vũ Thị
Thường sưu tầm, tuyển chọn và in trong ba tập Di cảo thơ Chế Lan Viên
(1992, 1993, 1996). Giới văn học và công chúng lại bất ngờ sửng sốt trước
một Chế Lan Viên hết sức đa dạng, sâu sắc, phức tạp, vừa quen thuộc, vừa
mới lạ trong các tập Di cảo thơ này.
Năm 1996, Chế Lan Viên được truy tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về
văn học nghệ thuật.
Chế Lan Viên là một nghệ sĩ lớn, luôn trăn trở tìm tòi trên con đường
nghệ thuật. Hơn nửa thế kỉ sáng tạo ông đã tìm đến nhiều khuynh hướng nghệ
thuật và ở chặng đường nào cũng ghi được những thành công nổi bật, nhưng
nhà thơ vẫn luôn không tự bằng lòng với mình, bởi “Cái trang mơ ước một
đời chưa vươn tới” và khắt khe với chính mình khi nhìn lại đời thơ “Một
nghìn câu thơ thì chín trăm câu dang dở” (Hồi ký bên trang viết).
1.2. Con đường nghệ thuật của Chế Lan Viên
Cho đến năm 1996, Chế Lan Viên đã có 13 tập thơ được công bố với
tổng số 1025 bài, trong đó có 49 bài thuộc tập thơ Hoa ngày thường - Chim
báo bão.
Trước Cách mạng tháng Tám, Chế Lan Viên chỉ có một tập thơ Điêu
tàn (1937) và một số bài thơ viết sau Điêu tàn dự định in thành tập Thơ không
tên. Bước chuyển của thơ Chế Lan Viên là tập Gửi các anh (1955) và thật sự
thành công với tập Ánh sáng và phù sa.
Những năm cả nước chống Mỹ là một giai đoạn sáng tác dồi dào và đầy
hào hứng của nhà thơ với các tập Hoa ngày thường - Chim báo bão (1967),
Những bài thơ đánh giặc (1972), Đối thoại mới (1973) và còn được tiếp tục
sau năm 1975 với Hái theo mùa (1977), một tập thơ về Bác Hồ Hoa trước
lăng Người (1976), Hoa trên đá (1984), Ta gửi cho mình (1986). Khép lại sự
nghiệp sáng tác thơ Chế Lan Viên là với các tập Di cảo thơ tập I (1992), tập II

Bïi ThÞ HuyÒn Trang

13

K32A Khoa Ng÷ V¨n

Kho¸ luËn tèt nghiÖp

Tr­êng §HSP Hµ Néi 2

(1993), tập III (1996) mà phần lớn là các bài được viết trong những năm
cuối đời.
Con đường nghệ thuật của Chế Lan Viên với hơn nửa thế kỉ đã đi qua
ba chặng đường chính:
1.2.1. Chặng đường thơ Chế Lan Viên trước Cách mạng tháng Tám
1945
Chế Lan Viên nổi tiếng từ trước Cách mạng Tháng Tám với Điêu tàn
gồm 36 bài thơ được sáng tác khi ông mới 17 tuổi và đang là học sinh trung
học ở Quy Nhơn, tập thơ đã làm cho người đọc phải “kinh ngạc và bàng
hoàng”. Trong tập Điêu tàn Chế Lan Viên đã nói tới việc phi thường nghĩa là
không làm chuyện tầm thường, dung tục. Chính giữa lúc chủ đề về cá nhân rất
thịnh trong phong trào Thơ mới thì Chế Lan Viên trở về với số phận của một
dân tộc bị thời gian chôn vùi với “máu xương kêu khóc”. Ông tìm cái đẹp
không phải trong “Cái chân”, “Cái thiện”, mà tìm trong hư ảo với điêu tàn.
Chế Lan Viên viết tựa Điêu tàn: “Làm thơ là làm sự phi thường. Thi sĩ không
phải là Người. Nó là người Mơ, người Say, người Điên. Nó là Tiên, là Ma, là
Quỷ, là Tinh, là Yêu. Nó thoát hiện tại. Nó xối trộn dĩ vãng. Nó ôm trùm
tương lai”. Quả là Chế Lan Viên cùng với trường thơ Loạn “muốn xác lập
một thế giới mới trong thi ca khác với quan hệ của đời thường” (Hà Minh
Đức) - Đó là một thế giới dị thường.
Với một nguồn cảm hứng dồi dào, bên cạnh một sức tưởng tượng quá
mãnh liệt hiểu theo hai thể cách, trong Điêu tàn có hai Chế Lan Viên: Một
Chế Lan Viên qua hình ảnh của ngọn tháp Chàm bơ vơ, sừng sững, cứng
nhắc, đứng thành ngọn đồi với nét mặt càng thêm bí ẩn, buồn thảm lúc hoàng
hôn xuống; Một Chế Lan Viên thứ hai đã xuất hiện “tỏa rộng như hơi”, bao
vây, ôm ấp thân mình tháp rồi bốc lên cao bay theo sương gió, theo mây ngàn

Bïi ThÞ HuyÒn Trang

14

K32A Khoa Ng÷ V¨n

Kho¸ luËn tèt nghiÖp

Tr­êng §HSP Hµ Néi 2

phương, theo trăng vạn kiếp ... Sau một thời gian hể hả, làn hơi ấy lại tìm về
chiều sâu dưới chiếc hòm xăng đầy xương cốt.
Điêu tàn đã thể hiện thầm kín tấm lòng yêu đất nước, một đất nước
đang tồn tại nhưng thực sự đang “điêu tàn” trong chế độ và cảnh đời cũ. Tố
Hữu đã nhận xét: “Chế Lan Viên thì gợi lên nỗi hoài vọng của dân tộc Chàm
ngày xưa theo cách của anh, đó cũng là một lời ca yêu nước, bởi anh khóc số
phận của những dân tộc bị đô hộ”. Nhà thơ muốn thoát li khỏi mọi sự ràng
buộc với cuộc đời hiện tại.
Điêu tàn miêu tả một “cái tôi” trữ tình năng động muốn tìm hiểu về
cảnh ngộ xung quanh, về bản thân mình và Chế Lan Viên rơi vào bi kịch là
không có khả năng nhận thức, lí giải biết bao điều trong cuộc sống.
Ngoài ra, trong thời kỳ này Chế Lan Viên còn có tập bút ký triết luận
Vàng sao (1942).
1.2.2. Chặng đường thơ Chế Lan Viên những năm kháng chiến chống
Pháp và chống Mỹ
Chế Lan Viên đã có sự chuyển biến mạnh mẽ thể hiện bằng sự đột phá
trong sáng tác của nhà thơ.
1.2.2.1. Từ 1945-1960
Trong những năm tháng của cuộc kháng chiến chống Pháp, Chế Lan
Viên đã thực sự hòa mình vào cuộc cách mạng và đời sống nhân dân, từ đó
từng bước thay đổi tư tưởng và tâm hồn mình. Tập Gửi các anh ra đời và xuất bản
năm 1955 đã đánh dấu bước chuyển biến trong tư tưởng của nhà thơ.
1.2.2.2. Từ 1960-1975
Tập Ánh sáng và phù sa là một bước đi, một bậc thang của hồn thơ Chế
Lan Viên. Cách mạng đã giúp Chế Lan Viên lao mình vào cuộc sống chung
của dân tộc, tìm đến những chân trời bao la được mở ra cho thơ và thơ ông đã
được hồi sinh. Xuất bản năm 1960 với 69 bài thơ, Ánh sáng và phù sa đã thể

Bïi ThÞ HuyÒn Trang

15

K32A Khoa Ng÷ V¨n

Kho¸ luËn tèt nghiÖp

Tr­êng §HSP Hµ Néi 2

hiện tâm hồn Chế Lan Viên có những rung cảm về cuộc sống, về con người
hôm nay qua kháng chiến cũng như trong đấu tranh thống nhất và xây dựng
chủ nghĩa xã hội.
Về nhan đề của tập thơ Ánh sáng và phù sa, Chế Lan Viên đã giải
thích: “Ánh sáng soi rọi tôi và phù sa bồi đắp tôi, ánh sáng tinh thần và phù
sa vật chất của lí tưởng tôi”. Ánh sáng và phù sa trình bày cuộc phấn đấu
trong tâm hồn và tư tưởng của nhà thơ để vượt qua những nỗi đau riêng hoà
hợp với niềm vui chung. Chúng ta cũng thấu hiểu “Thơ là tiếng hát của tâm
hồn, thơ là sự chân thực, trần trụi của tâm hồn”. Vì vậy, một tâm hồn phải tự
giải quyết những vấn đề của nó chưa giải quyết được thì những “tiếng hát”
của nó về xã hội vẫn cứ lướng vướng, gập ghềnh như có gì còn che giấu. Tập
Ánh sáng và phù sa là một giai đoạn đấu tranh của tâm hồn thơ Chế Lan Viên,
không những đấu tranh chống bệnh tật mà thực ra còn chống với những còn
lại nào đó của giai đoạn suy nghĩ siêu hình trước cách mạng “Vào trong
những lớp kim tâm hồn cay đắng”, “ Thơ ăn mất hồn”.
Là một nhà thơ lớp trước, tâm hồn của Chế Lan Viên ngày xưa đắm
chìm trong “dĩ vãng buồn thương”, cách mạng đã giúp Chế Lan Viên đoạn
tuyệt với thời kỳ Điêu tàn và Vàng sao, Gai lửa đã đưa ông trở về với thực tế
cách mạng, sáng tác dưới ánh sáng, lí tưởng của Đảng và lòng tin yêu của
quần chúng nhân dân.
Ánh sáng và phù sa là một tập thơ trữ tình đúng với ý nghĩa căn bản
của thuật ngữ đó. Cuộc sống khách quan được biểu hiện qua cảm nghĩ và tâm
trạng. Chế Lan Viên nói với người đọc bằng lời nói tâm tình, nhiều yêu
thương và xúc cảm. Tập thơ đã đạt đến độ chín về tư tưởng và nghệ thuật.
Nếu Gửi các anh còn để lại ấn tượng về một sự cố gắng đổi mới nhưng chưa
đạt đến ổn định chắc chắn thì ở Ánh sáng và phù sa, những đổi mới về nội

Bïi ThÞ HuyÒn Trang

16

K32A Khoa Ng÷ V¨n

Kho¸ luËn tèt nghiÖp

Tr­êng §HSP Hµ Néi 2

dung đã đi liền với nghệ thuật thể hiện đa dạng và nhuần nhuyễn. Bút pháp
Chế Lan Viên đến đây đã đạt đến sự đa dạng biến hóa linh hoạt.
Nghệ thuật của Ánh sáng và phù sa nổi bật lên ở trí tưởng tượng mạnh
mẽ, ở những hình ảnh đẹp và lộng lẫy, ở sự hòa hợp cảm xúc và trí tuệ.
Bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, thơ Chế Lan Viên đạt
được thành tựu mới với các tập Hoa ngày thường - Chim báo bão (1967),
Những bài thơ đánh giặc (1972), đã hoàn thành cuộc hành trình từ “Cái tôi
lạc lõng, cô đơn trở về giữa lòng dân tộc ấm áp yêu thương”. Dòng mạch thơ
ấy còn tiếp tục chảy tới những tập thơ xuất bản sau ngày đất nước thống nhất của
Chế Lan Viên như: Hái theo mùa (1977), Hoa trên đá (1984).
Bên cạnh việc sáng tác và cho ra đời các tập thơ, trong thời kỳ này Chế
Lan Viên còn bộc lộ tài năng trong ngòi bút của mình qua một số bút ký, tùy
bút ghi lại hiện thực chiến đấu của quân và dân ta như: Những ngày nổi giận
(1966), Giờ của số thành (1977)... Tiếp đó là các tập phê bình văn học với lối
viết dạt dào cảm xúc thể hiện ngòi bút rất riêng của Chế Lan Viên: Phê bình
văn học (1962), Vào nghề (1962), Suy nghĩ và bình luận (1971)...
1.2.3. Chặng đường thơ Chế Lan Viên sau 1975 và những năm cuối đời
Từ giọng sử thi hào sảng, thơ Chế Lan Viên chuyển sang giọng thế sự
đời tư trầm lắng, da diết: “Giọng cao bao nhiêu năm giờ anh hát giọng trầmTiếng hát lẫn vào im lìm của đất”. Những khúc xạ của đời sống xã hội và
nhân tình thế thái sau chiến tranh đi vào thơ Chế Lan Viên tạo nên giọng
buồn, chua chát: “Người ta chỉ biết màu sen anh đỏ rực - Còn nỗi buồn hoa
tím biết cho đâu”. Sự chuyển hướng ấy được bắt đầu ở tập thơ Hoa trên đá
(1984) tiếp đó là Ta gửi cho mình (1986) và khép lại với các tập Di cảo thơ
(Tập I - 1992, tập II - 1993, tập III - 1996), xuất bản sau khi nhà thơ qua đời.
Di cảo thơ là những bài thơ chiêm nghiệm, suy tưởng, tự vấn, độc thoại
về những trăn trở vĩnh cửu của đời người: “Vui buồn, được mất, sống chết”...

Bïi ThÞ HuyÒn Trang

17

K32A Khoa Ng÷ V¨n

Kho¸ luËn tèt nghiÖp

Tr­êng §HSP Hµ Néi 2

Di cảo thơ mở ra những chủ đề vĩnh cửu của thơ ca, “có vị đắng đót của thứ
thơ lặn vào trong, nói với riêng mình”. Những suy tưởng về thơ, về nghệ
thuật của Chế Lan Viên càng sâu sắc, thấm thía.
Về chất lượng nghệ thuật của Di cảo của thơ, Nguyễn Thái Sơn viết
rất đúng rằng: “Có những tình cảm, những nỗi niềm, những giá trị nhân văn
và nghệ thuật mà chỉ đến khi đọc thơ “Di cảo” của Chế Lan Viên ta mới nhận
ra”. Bên cạnh những tác phẩm thơ, ở giai đoạn này Chế Lan Viên tiếp tục
viết tiểu luận, phê bình văn học với các tập như: Từ gác Khuê Văn đến quán
Trung Tân (1981), Nghĩ cạnh dòng thơ (1982) và Ngoại vi thơ (1987).
Con đường nghệ thuật của Chế Lan Viên là một hành trình tìm kiếm
không ngừng với nhiều bước ngoặt, có cả sự phủ định để vượt lên chính
mình. Đúng như nhà thơ Tế Hanh đã nhận xét: “Nói chung thơ Chế Lan Viên
trên 50 năm luôn luôn là một giọng thơ gây nhiều sự chú ý của dư luận. Có
thể nói, Chế Lan Viên là một nhà thơ không yên ổn, anh không yên ổn trong
trăn trở sáng tác của mình và cũng mang đến sự không yên ổn trong tình hình
thơ của chúng ta”. Là một người mở đầu trong khuynh hướng tăng cường
chất trí tuệ, suy tưởng, triết lí, Chế Lan Viên có ảnh hưởng rộng rãi đến nhiều
nhà thơ thuộc các thế hệ sau và đem đến những tác động tích cực đối với sự
tiếp nhận của công chúng.

Bïi ThÞ HuyÒn Trang

18

K32A Khoa Ng÷ V¨n

Kho¸ luËn tèt nghiÖp

Tr­êng §HSP Hµ Néi 2
CHƯƠNG 2

QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT VÀ SỰ CHI PHỐI CỦA
QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT TRONG THƠ CHẾ LAN VIÊN

2.1. Thuật ngữ “Quan niệm nghệ thuật”
Theo Từ điển thuật ngữ văn học, quan niệm nghệ thuật là “nguyên
tắc cắt nghĩa thế giới và con người vốn có của hình thức nghệ thuật, đảm bảo
cho nó có khả năng thể hiện đời sống với một chiều sâu nào đó; là sự miêu tả
hữu hạn của thế giới vô hạn là cuộc đời...” [5, 274].
“Quan niệm nghệ thuật là hình thức bên trong của sự chiếm lĩnh đời
sống, là hệ quy chiếu ẩn chìm trong hình thức nghệ thuật, nó gắn với các
phạm trù phương pháp sáng tác, phong cách nghệ thuật, làm thành thước đo
của hình thức văn học và là cơ sở của tư duy nghệ thuật” [5, 275].
“Quan niệm nghệ thuật về thế giới và con người được thể hiện ở điểm
nhìn nghệ thuật, ở chủ đề cảm nhận đời sống được hiểu như những hằng số
tâm lí của chủ thể, ở kiểu nhân vật và biến cố mà tác phẩm cung cấp, ở cách
xử lí các biến cố và quan hệ nhân vật” [5, 274].
Có thể nói rằng, nhà văn sáng tạo ra nhân vật là để khái quát quy luật
về đời sống con người và bộc lộ quan niệm của mình về con người xã hội.
Tuy nhiên, quan niệm nghệ thuật về con người của nhà văn mới là nhân tố
quy định trực tiếp tới nhân vật. Tại sao trong Văn học Phục Hưng lại có
thằng điên, thằng hề? Và tại sao chỉ có những người điên, thằng hề mới dám
nói lên sự thật? Tại sao nhân vật của Nam Cao thường có ngoại hình xấu? Tại
sao truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan lại thiên về xây dựng những hiện
tượng trào phúng? Tất cả những câu hỏi đó chỉ có thể lí giải nếu hiểu được
quan niệm nghệ thuật về con người của nhà văn.

Bïi ThÞ HuyÒn Trang

19

K32A Khoa Ng÷ V¨n

Kho¸ luËn tèt nghiÖp

Tr­êng §HSP Hµ Néi 2

Quan niệm nghệ thuật về con người sẽ được triển khai qua từng tác
phẩm cụ thể của nhà văn. Ngay từ những tác phẩm đầu tay, Tô Hoài đã một
cách tự nhiên hướng ngòi bút của mình vào “những chuyện trong làng và
trong nhà, những cảnh và người của một vùng công nghệ đương sa sút, nghèo
khó” (Một số kinh nghiệm viết văn của tôi). Thế là cuộc sống và con người
làng Nghĩa Đô, nơi chôn rau cắt rốn của tác giả đã khơi nguồn sáng tạo nghệ
thuật cho Tô Hoài. Ông từng tâm sự, những tác phẩm đầu tay là những tác
phẩm mà “Đời sống xã hội quanh tôi, tư tưởng và hoàn cảnh của chính tôi đã
vào cả sáng tác của tôi” (Tự truyện).
Như mọi nhà văn chân chính, mối quan tâm lớn trước hết ở Nguyễn
Minh Châu là quan hệ giữa văn học với đời sống, với thời đại. Ngay từ thời
kỳ đầu cầm bút, nhà văn đã quan niệm: “Văn học bao giờ cũng phải trả lời
những câu hỏi của đời sống” (Nhà văn, đất nước và dân tộc mình). Ngòi
bút của Nguyễn Minh Châu không còn bị khuôn vào những đường hướng,
những khuôn khổ có sẵn mà mở ra để khám phá toàn bộ đời sống xã hội và
con người trong tính “đa sự, đa đoan” của nó. Đồng thời, quan niệm về hiện
thực ở Nguyễn Minh Châu cũng luôn gắn liền với nền tảng tinh thần nhân
bản: “Văn học và đời sống là những vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là con
người” ( Trả lời phỏng vấn báo văn nghệ đầu xuân 1987).
Quan niệm nghệ thuật của văn học có liên hệ mật thiết với quan niệm
về thế giới và con người, về mặt triết học, khoa học, tôn giáo, đạo đức, chính
trị vốn có của thời đại mình. Nhưng do đặc thù của mình mà quan niệm nghệ
thuật có những thể hiện và bộc lộ riêng.
Như vậy, quan niệm nghệ thuật đó chính là nét riêng, điểm nhìn của
mỗi nhà văn. Quan niệm nghệ thuật của mỗi nhà văn khác nhau và điều đó
được bộc lộ rõ nét qua từng tác phẩm của họ. Sự thật có thể là một, nhưng
cách nhìn, cách cảm, cách nghĩ của nhà văn là muôn màu, muôn vẻ làm

Bïi ThÞ HuyÒn Trang

20

K32A Khoa Ng÷ V¨n