Li khai và vấn đề li khai dân tộc ở một số nước đông nam á

  • doc
  • 138 trang
Lời giới thiệu
Ngày 18 tháng 09 năm 2014 người dân Scotland đi bỏ phiếu để quyết
định việc ở lại Liên hiệp Vương quốc Anh hay tách ra khỏi Liên hiệp Vương quốc
Anh. Cuộc li hôn tiềm tàng giữa Scotland và Liên hiệp Vương quốc Anh đặt ra nhiều
câu hỏi. Kể từ sau chiến tranh thế giới lần thứ 2, có một nguyên tắc ở châu Âu là các
đường biên giới bất khả xâm phạm. Bởi người ta lo ngại căng thẳng biên giới sẽ kéo
châu Âu vào một cuộc chiến như nhiều thế kỉ chiến tranh trước đây. Và người ta có lí
do để lo ngại như vậy.
Cũng giống như các tỉnh miền Đông Ucraina tách ra khỏi Ucraina,
việc Scotland tách khỏi Anh sẽ đánh dấu một bước chuyển mới, có thể người ta sẽ
xem xét lại nguyên tắc đường biên giới bất khả xâm phạm. Vì trước đó, Người dân
xứ Basque tại Tây Ban Nha đã lên tiếng khẳng định ý nguyện tiếp theo bước
Scotland. Xứ Catalan cũng dọa trưng cầu dân ý đòi độc lập với Mandrid. Ở Bỉ, vùng
nói tiếng Hà Lan (flamish) vốn đòi tách ra thành quốc gia riêng đang nhìn vào tấm
gương của người Scotland. Tại vùng Veneto gần năm triệu dân của Italia, cư dân tổ
chức trưng cầu dân ý trực tuyến, cứ mười người thì có tới chín người muốn độc lập.
Cũng như vậy ở Pháp, có nhiều tiếng nói li khai từ những người “mũ đỏ” ở vùng
Bretagne. Người Kurd ở Thổ Nhĩ kì cũng tuyên bố muốn độc lập. Bên kia bán cầu,
phong trào li khai ở Quebec cũng tuyên bố muốn tổ chức trưng cầu dân ý tách ra
khỏi Canada… Nếu Scotland tách ra khỏi Anh, mọi trường hợp khác đều có thể.
Cả châu Âu đổ dồn sự chú ý vào cuộc trưng cầu dân ý lịch sử ở Scotland. Báo
chí Trung Quốc còn vội vã kết tội đương kim Thủ tướng Anh David Cameron là tội
đồ. Nó mở ra một tiền lệ rõ ràng và hợp pháp hóa các trường hợp tương tự không
những ở Trung quốc với Đài Loan, Tân Cương và Tây Tạng mà còn gây ra hiệu ứng
Đômino ở cấp độ toàn cầu. Người ta sẽ phải định nghĩa lại thế nào là một quốc gia.
May nắm thay, Ủy ban bầu cử Scotland đã công bố có 55% cử tri Scotland ủng hộ ở
lại Liên hiệp Vương quốc Anh so với 45% bỏ phiếu muốn giành độc lập. Số phiếu
chênh nhau 5%. Nước Anh vẫn là một quốc gia thống nhất của bốn nhà nước: Anh,
xứ Wales, Scotland và Bắc Ailen. Tuy nhiên, trong tương lai thế giới sẽ ra sao khi mà
ngay cả châu Âu đang trong tiến trình hợp nhất thành một liên minh rộng lớn về

chính trị, kinh tế, ngoại giao, nhưng không vì thế mà châu lục này trở nên nhất thể
hóa vì ngày càng có sự chia rẽ sâu sắc trong nội bộ từng quốc gia. Có nhiều hang ổ
của chủ nghĩa li khai khiến các nhà phân tích dự báo sẽ có hàng chục quốc gia mới
sẽ xuất hiện trên bản đồ thế giới.
Vấn đề li khai dân tộc là một trong những vấn đề đang nổi cộm lên
trong nền chính trị quốc tế. Li khai dân tộc có liên quan chặt chẽ đến vấn đề dân tộc,
một trong những vấn đề phức tạp nhất, nhạy cảm nhất trong quan hệ quốc tế.Một số
nhà nghiên cứu nâng vấn đề li khai dân tộc lên thành chủ nghĩa li khai, một biểu hiện
của chủ nghĩa dân tộc nằm trong quá trình phát triển của xã hội loài người. Điều đó
đã cho thấy tầm quan trọng của vấn đề li khai dân tộc trong công tác nghiên cứu,
nhất là từ sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, hệ tư tưởng không còn là tác nhân chủ
yếu gây ra những xung đột dân tộc trên thế giới hiện nay.
Ở hầu hết tất cả các khu vực dân tộc trên thế giới, từ các nước phát triển
đến các nước đang phát triển, trong đó có Đông Nam Á, nhiều quốc gia đang phải
đương đầu với vấn đề li khai dân tộc. Tại một số quốc gia, xung đột li khai dân tộc
đã trở thành một cuộc chiến đẫm máu kéo dài. Hàng chục ngàn người phải bỏ mạng.
Hàng chục vạn người phải di dời chỗ ở. Chiến sự không chỉ gây ra những thảm họa
nhân đạo mà còn làm đình đốn nền kinh tế, làm tổn thương tình cảm giữa các dân
tộc trong một quốc gia. Có nhà nghiên cứu còn cho rằng vấn đề li khai dân tộc là một
trong những trở ngại mà Đông Nam Á phải vượt qua để ổn định và phát triển [21, tr.
38].
Hầu hết các nước Đông Nam Á là quốc gia đa dân tộc. Làm thế nào để xây
dựng sự hòa hợp dân tộc bền vững ở các quốc gia là một thách thức lớn ở khu vực.
Các thế lực li khai dân tộc ở Inđônêsia, Philipphin, Thái Lan đang cố gắng đòi các
quyền tự trị hoặc độc lập hoàn toàn. Thực tế họ đã đạt được những mục tiêu nhất
định và để lại những hậu quả khôn lường. Vấn đề dân tộc và li khai dân tộc đang
diễn ra rất phức tạp, nhưng không phải là không có con đường giải quyết. Thực tế
cũng cho thấy trong mấy chục năm qua, ở một số quốc gia Đông Nam Á, vấn đề dân
tộc và li khai dân tộc không phải lúc nào cũng bằng phẳng nhưng các quốc gia này

đã giải quyết thành công, xã hội ổn định, kinh tế phát triển, đời sống nhân dân không
ngừng được nâng cao.
Đất nước chúng ta đang trong quá trình hội nhập vào khu vực và thế giới. Vấn
đề li khai dân tộc ở các nước xung quanh trong khu vực chắc chắn có liên quan tới
vấn đề đối ngoại và hoạch định chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo của Đảng và
Nhà nước. Chúng tôi mong muốn được phác thảo ra một bức tranh chung về tình
hình li khai và những sự kiện chủ yếu về phong trào li khai dân tộc ở một số nước,
nêu lên quá trình phát sinh, phát triển của nó, bước đầu rút ra nguyên nhân, bài học
để góp một tiếng nói vào vấn đề này.
Trên thế giới, việc nghiên cứu vấn đề li khai dân tộc thường gắn liền với việc
nghiên cứu xung đột dân tộc, tôn giáo, khủng bố. Từ những năm 1990 trở lại đây, khi
mà chiến tranh lạnh kết thúc, đề tài này được đề cập tới nhiều hơn. Nhìn chung các
nhà nghiên cứu có nhiều quan điểm tiếp cận. Có nghiên cứu đứng trên quan điểm địa
chính trị để xem xét. Có nghiên cứu đứng trên quan điểm địa kinh tế để xem xét. Có
nghiên cứu đứng trên phương diện xã hội học, dân tộc học. Có nghiên cứu đứng trên
phương diện văn hóa học. Cũng có nghiên cứu vận dụng kết hợp tổng hợp các quan
điểm trên.
Ở nước ta trong những năm gần đây, một số nhà nghiên cứu, giảng dạy, cơ
quan nghiên cứu đã đề cập đến vấn đề li khai dân tộc trong nhiều bài viết, tạp chí, ấn
phẩm sách báo. Một số luận văn cũng đề cập đến đề tài này. Tuy nhiên vẫn chưa có
một công trình lớn nào đề cập một cách toàn diện, sâu sắc tới hoạt động li khai dân
tộc ở các nước Đông Nam Á từ sau chiến tranh lạnh đến nay.
Ổn định chính trị, xã hội là một trong những nhân tố quyết định cho sự phát
triển của mỗi quốc gia. Một trong những vấn đề liên quan đến sự ổn định chính trị,
xã hội là giải quyết tốt hay không tốt mối quan hệ dân tộc, tôn giáo. Đông Nam Á đã
và đang có sự bất ổn về mặt dân tộc và tôn giáo, sự bất ổn dẫn đến các cuộc chiến
đòi ly khai dân tộc. Giải quyết vấn đề dân tộc và tôn giáo không còn là vấn đề riêng
của quốc gia nào. Nó trở thành mối quan tâm hàng đầu của nhiều nước. Với tinh
thần đó, chúng tôi mong muốn được phác thảo ra một bức tranh khái quát về vấn đề
li khai dân tộc ở một số quốc gia Đông Nam Á, tìm ra những nguyên nhân lịch sử,

chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa phát sinh các hiện tượng li khai dân tộc ở một số
nước Đông Nam Á và đánh giá những tác động tiêu cực của nó tới an ninh, chủ
quyền, rút ra một số bài học chung về chính sách dân tộc, tôn giáo.

Chương 1: VẤN ĐỀ LI KHAI DÂN TỘC
1.1. khái niệm
Nhìn chung, giới nghiên cứu có quan điểm tương đối thống nhất về thuật ngữ
li khai dân tộc. Theo Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học xuất bản năm 1994
và một số từ điển khác của Việt Nam xuất bản từ năm 2000 đến nay, từ li khai là tách
ra khỏi, lìa bỏ một tổ chức, một đảng phái hay những tư tưởng quan điểm chính trị
nào đó. Hiểu theo nghĩa này, li khai dân tộc chỉ hiện tượng một dân tộc, hay một
nhóm dân tộc tách ra khỏi một quốc gia dân tộc nhằm thực hiện một nhà nước độc
lập hay tự trị. Theo Từ điển Oxford advanced leaner's xuất bản năm 1992 của Anh
thì li khai (secede) nghĩa là từ bỏ một cái gì đó, rút ra khỏi tư cách hội viên của một
tổ chức, một quốc gia. Với từ này, Encyclopedia Encatar của Microsoft (Mỹ) có định
nghĩa là việc chính thức rút khỏi tư cách thành viên của một tổ chức, một nhà nước
hay một liên minh.
Từ nội hàm của khái niệm li khai qua một số từ điển, chúng tôi đồng ý với
cách diễn đạt của Hao Shi Yuan, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Dân tộc Trung Quốc
trong bài viết: "Li khai dân tộc và chủ nghĩa khủng bố” [20, tr. 117]. Li khai dân tộc
là thuật ngữ chỉ việc bên trong một quốc gia độc lập có chủ quyền, có lãnh thổ toàn
vẹn, do mâu thuẫn về vấn đề dân tộc, dưới tác động của các nhân tố bên trong, bên
ngoài, một số thế lực trong các dân tộc phi chủ thể hoặc các dân tộc thiểu số đưa ra
các yêu sách chính trị, tiến hành hoạt động bạo lực, thậm chí thực hiện các hành
động chống đối quân sự để đòi thành lập nhà nước độc lập hay tự trị.
Căn cứ lý luận của các thế lực li khai dân tộc chủ yếu là nguyên tắc tự quyết
dân tộc, lấy nhân quyền làm cái cớ để truyền bá và kích động, từ đó họ tìm kiếm địa
vị chính trị hợp pháp ở trong nước và ngoài nước, kể cả tranh thủ một số thế lực
quốc tế nào đó, nhằm thực hiện mục tiêu chính trị là thành lập nhà nước độc lập hoặc
tự trị cao độ.
Li khai dân tộc là một trong những hình thức biểu hiện của chủ nghĩa dân tộc,
nhưng không đồng nhất với chủ nghĩa dân tộc. Chủ nghĩa dân tộc là hệ tư tưởng
chính trị và biểu hiện tâm lý đòi hỏi quyền lợi độc lập, tự chủ và phát triển của cộng

đồng quốc gia dân tộc. Chủ nghĩa dân tộc hình thành và phát triển gắn liền với quá
trình đấu tranh để xây dựng và bảo vệ cộng đồng quốc gia dân tộc. Tuỳ tình hình đặc
điểm dân tộc, giai cấp và lịch sử của từng dân tộc, chủ nghĩa dân tộc mang dấu ấn
dân tộc và giai cấp khác nhau. Có chủ nghĩa dân tộc truyền thống thể hiện lòng yêu
nước lâu đời của một dân tộc, có chủ nghĩa dân tộc tư sản, có chủ nghĩa dân tộc Xô
Viết, có chủ nghĩa dân tộc sô vanh nước lớn, có chủ nghĩa dân tộc cách mạng...
Li khai dân tộc và chủ nghĩa dân tộc có điểm chung là đều gắn liền với vấn đề
dân tộc, một trong những nội dung quan trọng trong đời sống chính trị xã hội loài
người. Đến cuối những năm 1980, theo đà tiêu vong của chủ nghĩa thực dân, về cơ
bản thế giới đã hình thành trên 160 quốc gia có chủ quyền ổn định. Ngoài một số
vùng đất uỷ trị của Liên Hợp Quốc, các nước thuộc địa cũ của các cường quốc về cơ
bản đã được độc lập. Do nguyên nhân lịch sử, đại đa số các quốc gia trên thế giới
đều do nhiều dân tộc hình thành nên và về cơ bản đều duy trì được cục diện thống
nhất. Tuy vậy, ở một số quốc gia và khu vực, những hiện tượng li khai dân tộc vẫn
phát sinh và phát triển.
Có một điều cần phân biệt là, do tàn dư thống trị của chủ nghĩa thực dân còn
chưa hoàn toàn được xóa bỏ, nên phong trào giải phóng dân tộc ở một số nơi còn
tiếp tục chịu ảnh hưởng nặng nề. Tuy nhiên, nó không thuộc phạm trù li khai dân tộc.
Thí dụ, vấn đề thành lập nhà nước Palestine độc lập ở Trung Đông. Phong trào xây
dựng nhà nước độc lập của New Caledonia, một vùng lãnh thổ hải ngoại thuộc Pháp
ở Tây Nam Thái Bình Dương. Việc Đông Timo tách khỏi Inđônêsia để thành lập nhà
nước độc lập cũng không thuộc vấn đề li khai dân tộc. Việc sử dụng lực lượng quân
đội của Tổng thống Inđônêsia Suharto để giành lấy Đông Timo sau khi các lực lượng
thực dân Bồ Đào Nha rút đi đã làm cho tiến trình tự quyết dân tộc của khu vực này
bị trì hoãn. Do đó, việc Liên Hợp Quốc đưa vấn đề Đông Timo vào phạm vi giải
quyết của mình là chuyện bình thường([1]).
Hiện tượng li khai dân tộc không những tồn tại ở các nước đang phát triển, mà
còn tồn tại ở các nước phát triển, có tính phổ biến nhất định. Các thế lực li khai dân
tộc tồn tại bên trong các quốc gia có chủ quyền hiện tại, về cơ bản thuộc về các thế
lực chủ nghĩa dân tộc cực đoan trong các dân tộc phi chủ thể hoặc các dân tộc thiểu

số. Họ thường tự xưng là đại biểu cho lợi ích của dân tộc mình, đòi thực hiện các
quyền tự quyết dân tộc, từ đó tạo ra thách thức đối với sự toàn vẹn lãnh thổ của quốc
gia độc lập có chủ quyền. Xét về mặt các quốc gia trên thế giới giới hiện tại lấy nhà
nước đa dân tộc làm chủ thể thì các thế lực li khai dân tộc trong cộng đồng quốc tế
và ở các quốc gia liên quan là không có tính hợp lý và hợp pháp.
Nhìn chung các dân tộc phi chủ thể hay các dân tộc thiểu số ở các nước có
hiện tượng li khai dân tộc đều thuộc những quần thể yếu thế. Tức là về các mặt
địa vị chính trị, địa vị kinh tế, ảnh hưởng văn hóa, quy mô dân số, tín ngưỡng tôn
giáo và phong tục tập quán đều ở trạng thái không chủ đạo nên ngoài việc thông
qua cơ chế chính trị để thực hiện mục tiêu độc lập ở một số quốc gia, các thế lực
li khai dân tộc đều thông qua phương thức nặc danh, bí mật để tạo ra các vụ việc.
Cũng có khi họ ngầm hoạt động phá hoại cơ sở hạ tầng vật chật như cầu cống,
giao thông, nhà cửa, trạm kiểm soát... Một số thế lực li khai còn có phương thức
hoạt động theo kiểu chiến tranh du kích, tiến hành ám sát, bắt cóc, tập kích vào
các cơ sở dân sự, quân sự ở quy mô lớn. Thậm chí họ còn dùng cả những phương
thức có tính cực đoan và biện pháp của chủ nghĩa khủng bố để nhằm mục đích tạo
ra tình trạng bất ổn trong xã hội, gây sức ép về chính trị, thu hút sự quan tâm của
dư luận và sự can thiệp của quốc tế. Mục tiêu cuối cùng của các thế lực li khai là
đạt tới tư cách đàm phán, khiến nhà nước phải nhượng bộ và thừa nhận địa vị hợp
pháp của họ.
Li khai dân tộc và xung đột dân tộc, tộc người là hai vấn đề khác nhau mặc dù
chúng đều xuất phát từ chủ nghĩa dân tộc và liên quan đến vấn đề dân tộc. Vấn đề
xung đột dân tộc, tộc người là một hiện tượng lịch sử có từ hàng ngàn năm nay, gắn
liền với quá trình hình thành và phát triển của mỗi dân tộc. Xung đột dân tộc, tộc
người có thể dẫn đến chiến tranh với các khả năng đồng hóa, hợp nhất, thống nhất
hoặc li khai dân tộc. Nhân loại không thể đếm xuể các cuộc xung đột dân tộc, tộc
người từ xưa đến nay. Nhưng không phải bất kỳ một xung đột dân tộc, tộc người nào
cũng dẫn đến li khai dân tộc. Li khai dân tộc chỉ diễn ra khi một quốc gia đa dân tộc
đã hình thành và gắn liền với lịch sử hiện đại từ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai.
1.2. Tình hình li khai dân tộc ở các khu vực trên thế giới.

Hiện tượng li khai dân tộc không chỉ diễn ra ở một khu vực mà diễn ra ở
nhiều khu vực trên thế giới. Nó không chỉ phát sinh, phát triển sau chiến tranh lạnh
mà đã ăn sâu bén rễ ngay từ trong chiến tranh lạnh. Có điều vấn đề li khai dân tộc đã
bị chìm đi bởi sự đối đầu căng thẳng giữa hai phe, đứng đầu là hai siêu cường Liên
Xô và Mỹ.
Ở châu Âu, châu lục bao gồm gần 90 dân tộc, tộc người có ngôn ngữ dân tộc
riêng, là cơ sở cho sự hình thành 45 quốc gia độc lập. Sức mạnh lớn nhất trong lịch
sử châu Âu hiện đại là chủ nghĩa dân tộc. Chủ nghĩa dân tộc đã đem lại cho châu Âu
cả sự thống nhất lẫn chia rẽ. Thống nhất trong Liên minh châu Âu, chia rẽ Đông Tây trong chiến tranh lạnh. Sau chiến tranh lạnh, xung đột bạo lực giữa các dân tộc,
tôn giáo vẫn chưa được giải quyết dứt điểm. Mặc dầu là một châu lục tương đối
thuần nhất nhưng châu Âu vẫn có vấn đề li khai dân tộc [30].
Xứ Basque là trường hợp điển hình cho chủ nghĩa li khai ở châu Âu. Tây Ban
Nha hiện có khoảng hai triệu người sống ở ba tỉnh được gọi là xứ Basque. Họ có
ngôn ngữ chính thức riêng. Xứ này từ thời trung cổ đã được hưởng một nền khá rộng
rãi. Họ chỉ mất quyền tự trị trong thời cầm quyền của tướng độc tài Francisco
Franco(1939-1975). Tổ chức li khai đã tiến hành đấu tranh vũ trang đòi độc lập cho
xứ Basque từ những năm 1960 cho đến khi được khôi phục quyền tự trị. Kể từ khi
Kosovo tuyên bố độc lập, tách khỏi Serbia tháng 2 năm 2008, như phát súng phát
động, phong trào đấu tranh li khai của xứ Basque ngày càng phát triển. Ở Catalonia,
một khu vực phát triển nhất về công nghiệp của Tây Ban Nha, nơi có ngôn ngữ và
văn hóa riêng, người ta cũng đã lên tiếng chào đón việc Kosovo tuyên bố độc lập và
nhấn mạnh rằng Catalonia cũng sẽ đi theo con đường đó.
Hiện tượng li khai dân tộc khiến người ta chú ý nhất là cuộc đấu tranh của
người Bắc Ireland đòi tách khỏi Vương quốc Anh. Thế lực li khai ở Bắc Ireland đã
thành lập được Mặt trận dân tộc thống nhất Ireland. Sự việc này bắt nguồn từ khi
Anh chia Ireland ra hai vùng để cai trị vào năm 1920. Phía Bắc Ireland là của người
theo đạo Tin Lành. Phía Nam Ireland là của người theo Thiên Chúa giáo. Trong
những năm 1960, theo đà phát triển của phong trào dân quyền của cư dân
Bắc Ireland, mâu thuẫn giữa các tín đồ tôn giáo ngày càng gay gắt. Đã có những

cuộc xung đột đẫm máu giữa các tín đồ theo các tôn giáo khác nhau. Với tôn chỉ
dùng vũ lực để thực hiện sự thống nhất Ireland, quân đội Cộng hòa Bắc Ireland
(IRA) tiến hành hoạt động bạo lực, khủng bố nhằm vào quân đội, cảnh sát và các
nhân vật chính trị chủ yếu của Anh. Họ không ngừng gây ra xung đột vũ trang với tổ
chức bán quân sự địa phương. Hoạt động li khai của họ đã có lịch sử gần 30 năm.
Khoảng 3500 người bị chết. Hơn 3 vạn người bị thương. Chi phí ngăn chặn bạo lực
hàng năm lên tới 4 trăm triệu bảng Anh.
Tiếp theo là người Scotland, suốt trong chiều dài lịch sử, người Scotland đã
gìn giữ được nền độc lập của mình. Năm 1320 họ đã viết bản tuyên ngôn độc lập dân
tộc đầu tiên ở châu Âu. Cho đến năm 1707 nền kinh tế Scotland bị thiệt hại nặng nề
do đầu tư xây dựng thuộc địa ở châu Mỹ. Đứng trước nguy cơ bị phá sản, giới lãnh
đạo Scotland đã đánh đổi nền độc lập bằng cách sáp nhập vào Anh để nhận lấy sự
cứu trợ về kinh tế. Từ đó đến nay phong trào đấu tranh ngày càng phát triển, từ đòi
được tự trị có quốc hội, thủ hiến riêng, đến nay Đảng dân tộc Scotland đứng đầu là
Thủ hiến Alex Salmon bắt đầu khởi động chiến dịch đòi độc lập, đỉnh điểm là cuộc
trung cầu dân ý ngày 19 tháng 09 năm 2014.
Bỉ hiện tại cũng đang đứng trước nguy cơ bị mất hai vùng: Một vùng Flander
ở miền Bắc nói tiếng Hà Lan, một vùng Wlloon ở miền Nam nói tiếng Pháp. Cuộc
thăm dò mới đây nhất cho thấy, hơn 60% người Flander và hơn 40% người vùng
Walloon ủng hộ sự li khai.
Tại Italia, tư tưởng li khai cũng đã hình thành mạnh mẽ ở các khu vực công
nghiệp phát triển phía bắc. Liên hiệp phía bắc rất có ảnh hưởng đã yêu cầu biến Italia
thành nhà nước liên bang. Cũng có người mong muốn South Tirol, vùng đất mà
Italia nhận được sau Chiến tranh thế giới thứ 1 được trở về với nước Áo.
Tại Pháp, năm 1975, ở đảo Corse, một hòn đảo ở biển Địa Trung Hải đã xuất
hiện các hoạt động bạo lực đòi tách ra khỏi nước này. Năm 1976 những người theo
tư tưởng li khai dân tộc đã thành lập Mặt trận giải phóng dân tộc Corse (The
National Liberation Front of Corse). Họ đưa ra cương lĩnh chính trị giành độc lập
bằng vũ trang. Các hoạt động bạo lực của các thế lực li khai dân tộc ngày một gia
tăng. Đặc biệt họ đã thực hiện những vụ đánh bom vào các cơ quan, tòa nhà của

chính phủ. Năm 1982, Chính phủ Pháp buộc phải đưa ra một chương trình phân cấp
quản lý. Nghị viện Pháp đã thành lập Hội đồng vùng Corse. Hội đồng này bao gồm
50 thành viên chuyên kiểm soát công việc chi tiêu, thuế, thương mại, giao thông...
Do chính sách trấn áp mạnh mẽ của Chính phủ Pháp, Mặt trận giải phóng dân
tộc Corse đã hoạt động trả thù theo kiểu chủ nghĩa khủng bố. Trong một đêm họ đã
gây ra 45 vụ nổ bom tại Corse và Paris. Sau đó Chính phủ Pháp tăng cường kiểm
soát, cấm tổ chức này hoạt động và tiến hành truy quét quyết liệt. Tổ chức này phân
hóa thành Liên minh toàn quốc Corse và Phong trào tự quyết Corse. Các tổ chức này
đều có lực lượng vũ trang riêng của mình. Một mặt, họ tiến hành đấu tranh giành
quyền lực thông qua nghị trường, mặt khác, họ liên tục tấn công khủng bố từ giữa
những năm 1990. Các tổ chức chính trị và bạo lực lấy việc giành độc lập cho Corse
làm mục đích đã phân hóa liên tục, hình thành nên một loạt tổ chức vũ trang bí mật.
Các tổ chức này liên tiếp gây ra các vụ khủng bố như đánh bom, bắt cóc, ám sát. Chỉ
trong vòng hơn một chục năm họ đã tiến hành 713 vụ đánh bom nhằm vào các tòa
nhà công cộng [26].
Tình trạng tương tự cũng diễn ra ở một số nước khác như Đan Mạch,
Hunggary, Thụy sĩ. Kể từ tháng 2 năm 2008, Kosovo với 90% là dân tộc thiểu số
Albani, chính thức tuyên bố độc lập, đã có năm mươi lăm quốc gia trong đó có Mỹ
và nhiều nước là thành viên Liên minh châu Âu công nhận nền độc lập này. Hiệu
ứng Đômino lập tức lan ra toàn châu lục. Đó là chưa kể tới cuộc xung đột vũ trang
chớp nhoáng giữa Nga và Gruzia về hai tỉnh li khai Nam Ossetia và Abkhazia, hai
vùng đất này đã tuyên bố độc lập và được Nga lập tức công nhận.
Ở Bắc Mỹ có thế lực li khai đòi độc lập cho các cư dân nói tiếng Pháp ở địa
phận Quebec, Canađa từ mấy chục năm nay. Họ sử dụng cả phương thức chính trị
lẫn phương thức bạo lực để đạt được mục tiêu độc lập. Họ đã thành lập Mặt trận giải
phóng Quebec để tập hợp tất cả các lực lượng chống đối chính phủ. Ít nhất có 11
nhóm hoạt động bạo lực từ năm 1963 đến 1970. Các nhóm này đã đặt bom vào
những mục tiêu mà họ cho là biểu tượng của sự áp bức như các cơ quan liên bang,
những tượng đài, sở giao dịch chứng khoán... Hành động gây tiếng vang làm xôn
xao dư luận là vào tháng 10 năm 1970, họ bắt cóc một tuỳ viên thương mại Anh và

Bộ trưởng Lao động Quebec. Chính quyền Canađa đã ban hành đạo luật với những
biện pháp áp dụng trong thời chiến. Quyền công dân bị hạn chế và bị đặt trong tình
trạng khẩn cấp. Quân đội được huy động vào chiến dịch truy quét gắt gao. Hàng
trăm dân thường bị bắt giữ, tra hỏi. Cuộc khủng hoảng này chỉ chấm dứt khi Bộ
trưởng Lao động bị sát hại và khi những kẻ khủng bố bị bắt giam giữ, tù đày. Tuy bị
trấn áp nhưng những thế lực li khai dân tộc vẫn nhiều lần đòi trưng cầu dân ý về nền
độc lập của Quebec[24]. Ngày 27 tháng 11 năm 2006 để ngăn chặn Quebec đòi tách
ra khỏi Canada, Hạ viện Canada đã biểu quyết công nhận Quebec là một quốc gia
nằm trong một nước Canada thống nhất. Các nhà quan sát quốc tế e rằng tình hình
Quebec chắc sẽ không chỉ dừng lại ở đó.
Ở Pêru có Tổ chức Con đường sáng (Shining Path) của tộc người India. Tổ
chức này có cơ sở rộng rãi trong những dân tộc bản địa. Mục tiêu chính trị của tổ
chức này là lật đổ chính quyền hiện tồn để thành lập một nhà nước hoặc một nền tự
trị của người India. Tương tự như vậy còn có Tổ chức Quân giải phóng Zapata ở
Mêhicô, một tổ chức li khai dân tộc cũng đòi tách ra khỏi quốc gia này.
Ở châu Á, lịch sử đã hình thành nên đa số các quốc gia dân tộc đa tộc người.
Sau Chiến tranh thế giới thứ II, phong trào giải phóng dân tộc trên khắp châu lục này
đã phát triển mạnh mẽ. Đến cuối những năm 1980, ách cai trị của chủ nghĩa thực dân
về cơ bản đã chấm dứt. Tuy nhiên, do di sản của thực dân để lại, do sự phức tạp về
vấn đề dân tộc và tôn giáo, tình hình li khai dân tộc diễn ra ở nhiều quốc gia mới
giành được độc lập.
Ở khu vực Nam Á, chính sách li khai tôn giáo đã làm nên một nhà nước
Pakistan Hồi giáo bên cạnh nhà nước Ấn Độ. Bản thân Pakistan năm 1970, phần
Đông đất nước lại tách thành nhà nước Bănglađét sau một cuộc đảo chính. Rồi từ đó,
trong nội bộ các nước, xu hướng li khai dân tộc vẫn âm ỉ kéo dài cho đến tận ngày
nay [25].
Ở Trung Quốc, vấn đề li khai dân tộc đã xuất hiện từ lâu ở Tây Tạng và Tân
Cương. Vào năm 1956, một số thế lực li khai đã tiến hành hoạt động du kích chống
lại chính quyền trung ương. Mặc dầu Chính phủ Trung Quốc đã trao quyền tự trị cho
vùng này nhưng lực lượng nổi dậy được sự giúp đỡ của các thế lực bên ngoài đã phát

động một phong trào chống đối mạnh mẽ trên quy mô lớn, làm thiệt hại lớn về người
và của, đe doạ sự toàn vẹn lãnh thổ của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa.
Chính phủ Trung Quốc đã tiến hành những biện pháp trấn áp cứng rắn. Dalai
Lama phải trốn sang Ấn Độ, thành lập một cộng đồng người dân tộc Tây Tạng ở hải
ngoại. Ngày 9/3/1961 Liên Hợp Quốc đã thông qua nghị quyết lên án Cộng hòa
nhân dân Trung Hoa vi phạm nhân quyền, đàn áp Phật giáo Tây Tạng. Hơn 10 ngàn
người dân tộc di dời lánh nạn sang các nước láng giềng như Ấn Độ, Nêpan, Butan.
Tháng 10/1987 những cuộc biểu tình của người dân tộc Tây Tạng lại diễn ra liên
tiếp. Các cuộc thương lượng bí mật giữa đại diện chính phủ và Dalai Lama không
tiến triển. Một bên phủ nhận nền tự trị hiện thời. Một bên từ chối thoả hiệp trao thêm
quyền tự trị cho Tây Tạng. Năm 1993, nhiều cuộc biểu tình đã nổ ra cùng với các
hoạt động bạo lực, khủng bố. Năm 1995, khi Tây Tạng tiến hành chọn Lama, những
cuộc xung đột mới lại tiếp tục nổ ra với yêu sách đòi độc lập hoàn toàn cho Tây
Tạng. Tháng 5 năm 1996, Cộng hòa nhân dân Trung Hoa đã sử dụng lực lượng vũ
trang truy quét các tu viện của người Tây Tạng. Rất nhiều người bị chết và bị
thương. Đoàn Lama bị kết án tù đày. Cuộc hội đàm bí mật giữa hai bên sụp đổ.
Ở Tân Cương, một tỉnh có tới 11 triệu người là người Hồi giáo Duy Ngô Nhĩ,
một tộc người thuộc khu vực Trung Á có ý thức giữ gìn ngôn ngữ riêng biệt của
người Đột Quyết, duy trì các phong tục Hồi giáo và nền văn hóa hoàn toàn khác với
người Hán, quan hệ giữa hai tộc người này ngày càng xấu đi. Tình hình li khai càng
nghiêm trọng sau vụ bạo loạn năm 2009 khiến 200 chết. Xung đột bạo động nổ ra
khắp Tân Cương. Bạo động còn lan tới cả Bắc Kinh, Vân Nam. Nguy hiểm hơn
phiến quân Tân Cương hiện nay bắt đầu tham gia Tổ chức Nhà nước Hồi giáo IS ở
Trung Đông, một tổn chức nguy hiểm nhất thế giới hiện nay.
Tình hình li khai dân tộc cũng diễn ra ở Xrilanka với tổ chức li khai dân tộc
Những con hổ giải phóng Tamil. Ở Mianma có tổ chức li khai dân tộc của người
karen, người Arakan. Ở Philippin có tổ chức li khai của người Moro. Ở Inđônêsia có
tổ chức li khai của người Aceh, Tây Papua. Ở Thái Lan có tổ chức li khai của người
Pattani [2]...

Ở châu Phi, sau khi giành được độc lập, các quốc gia đã kế thừa di sản chính
trị từ sự chiếm đóng sau hàng trăm năm của chủ nghĩa thực dân châu Âu. Đa số các
nước ở châu Phi có đường biên giới tùy tiện, theo ý chí của các cường quốc thực
dân, không phù hợp với lịch sử văn hóa tự nhiên. trong quá trình cai trị, các thế lực
thực dân đế quốc lợi dụng mâu thuẫn giữa các dân tộc, tộc người thi hành chính sách
chia để trị và đã để lại những hậu quả khôn lường. Chẳng hạn họ đã lợi dụng mâu
thuẫn giữa người Hutu và người Tutsi ở Ruanda và Burundi, đã gieo mầm thù hận
dân tộc giữa hai tộc người, dẫn tới nạn sát hại diệt chủng trong những năm 1990 tại
các quốc gia này. Ước chừng có trên 800 ngàn người, chủ yếu là người Tutsi bị giết
hại. Hàng triệu người Hutu phải đi lánh nạn tại Tandania ...
Ở nhiều nước châu Phi khác, các đảng phái chính trị thường hình thành trên
cơ sở dân tộc, tộc người. Điều đó đã tạo nên sự bất ổn trong nền chính trị của các
quốc gia non trẻ. Xung đột li khai dân tộc diễn ra ở nhiều nơi, ví dụ việc li khai dân
tộc của người Igbo dẫn tới cuộc nội chiến ở Nigiêria từ năm 1967 đến 1970. Vùng
Nam Phi, vùng Sahara, nơi tập hợp chủ yếu người Phi da đen, nơi đây được chia ra
thành hàng trăm nhóm dân tộc, ngôn ngữ. Sau quá trình phi thực dân hóa, sự đối
kháng dân tộc đã diễn ra gay gắt. Ở Chad, sau 10 năm xung đột, đến năm 1979 đất
nước bị phân chia làm đôi.
Ở Xuđan, cuộc chiến tranh li khai tàn khốc đã đi đến việc trao quyền tự trị cho
khu vực miền Nam. Chưa dừng lại ở đó, một cuộc trưng cầu dân ý về độc lập của
Nam sudan được tổ chức vào tháng 1 năm 2011, với kết quả 98,8% cử tri lựa chọn li
khai. Tổng thống Sudan Omar Al-Bashir đã chấp nhận kết quả này. Nam Sudan tuyên
bố độc lập vào ngày 09 tháng 07 năm 2011 và trở thành quốc gia trẻ nhất thế giới,
chấm dứt cuộc xung đột kéo dài 50 năm giữa những người theo đạo Hồi ở miền Bắc
với Phong trào giải phóng nhân dân ở miền Nam khiến hai triệu người thiệt mạng.
Ở Etiôpia, sự sụp đổ của chế độ quân chủ đã kéo theo sự li khai của các dân tộc
ở ngoại vi. Ở khu vực Trung Phi có cuộc xung đột và mưu toan li khai của người
Biafra đã dẫn Nigiêria đi đến việc phân chia cơ cấu liên bang theo thành phần dân
tộc [28]...

Điểm qua các hiện tượng li khai dân tộc ở các châu lục, chúng ta thấy vấn đề
li khai dân tộc không phải là vấn đề của riêng quốc gia nào. Bước sang kỷ nguyên
mới, sự đối đầu và rơi rớt của chiến tranh lạnh tưởng chừng như đã chấm dứt. Xu thế
hội nhập, hợp tác đang là xu thế chủ đạo trong quan hệ quốc tế. Nhưng một hiện
tượng lịch sử khác lại đang diễn ra gay gắt. Bên cạnh việc các cuộc chiến tranh giữa
các quốc gia giảm xuống thì việc các cuộc nội chiến, xung đột dân tộc, li khai dân
tộc lại tăng lên và trở thành điểm nóng ở nhiều nơi trên thế giới.

1.3. Các loại hình li khai dân tộc.
Li khai dân tộc trên thế giới hiện nay được tạo thành từ nhiều nguyên nhân
khác nhau, có bối cảnh lịch sử, chính trị - xã hội, kinh tế, văn hóa, tôn giáo khác nhau
nhưng có mục tiêu chính trị giống nhau là thành lập nhà nước độc lập theo dân tộc.
Do đó rất khó phân loại vấn đề này một cách rạch ròi. Xét từ phương thức hoạt động
và tình hình ở các quốc gia và khu vực khác nhau, các nhà nghiên cứu phân chia vấn
đề li khai dân tộc thành 4 loại hình cơ bản [20, tr.123].

1.3.1. Loại hình li khai dân tộc đối kháng quân sự.
Loại hình li khai dân tộc đối kháng quân sự chủ yếu chỉ những hiện tượng li
khai dân tộc tiến hành hoạt động nhằm thành lập các quốc gia độc lập bên trong một
quốc gia có chủ quyền nào đó bằng phương thức chiến tranh. Đặc điểm của loại hình
này là các thế lực li khai dân tộc đã có lực lượng chống đối quân sự tương đối mạnh.
Đương nhiên nó phải có một quá trình lâu dài xây dựng lực lượng từ không đến có,
từ yếu đến mạnh. Nó có một vùng lãnh thổ hay một khu vực kiểm soát ổn định. Các
hoạt động chính trị và lực lượng vũ trang của các thế lực li khai tuy bị nhà nước dân
tộc coi là bất hợp pháp, nhưng thế lực của họ đã trở thành đối thủ chính trị, đối thủ
quân sự, đối thủ đàm phán, buộc nhà nước dân tộc phải thừa nhận.
Tiêu biểu cho loại hình này là hiện tượng li khai dân tộc nhằm thành lập một
nhà nước do Tổ chức Những con hổ giải phóng Tamil (Liberation Tiger of Tamil
Eelam, LTTE) lãnh đạo ở Xrilanka. Dân tộc chủ thể ở Xrilanka là người Sinhalese

theo Phật giáo, chiếm khoảng 74% dân số toàn quốc. Thứ đến là người Tamil theo
Ấn Độ giáo, chiếm khoảng 18% dân số. Là những người dân di cư từ Nam Ấn Độ
tới Xrilanka vào thế kỷ XIV, người Tamil từng thành lập Vương quốc Jaffna Tamil,
kiểm soát vùng ven biển phía Bắc và phía Đông Xrilanka. Sau khi thực dân Anh xâm
lược, biến Xrilanka thành thuộc địa, rất nhiều người Tamil lại từ Ấn Độ di cư sang
Xrilanka theo các con đường lao động. Các thế lực thực dân Anh áp dụng chính sách
chia để trị đối với người Sinhalese và người Tamil, lợi dụng sự khác biệt dân tộc, tôn
giáo giữa hai nhóm dân tộc này để tạo ra bầu không khí chính trị có lợi cho sự thống
trị của thực dân Anh. Trong quá trình đô hộ, một mặt thực dân Anh nâng cao địa vị
của người Tamil, khiến cho người Tamil có được ưu thế về trình độ giáo dục, được
tuyển vào làm công ăn lương trong chính quyền đô hộ. Khi Phật giáo của người
Sinhalese phục hưng, ý thức dân tộc của họ dấy lên, các thế lực thống trị thực dân đã
xoa dịu bằng việc cơ cấu lại nhân lực hành chính, khiến cho người Sinhalese chiếm
đa số dân nhận được quyền ưu đãi hơn. Sau khi Xrilanka giành được độc lập vào
năm 1948, do ưu thế mà họ có được trong lĩnh vực chính trị, chính phủ do người
Sinhalese chi phối đã tăng cường củng cố chủ nghĩa dân tộc về mặt chính trị, kinh tế,
văn hóa. Phật giáo đã trở thành quốc giáo. Ngôn ngữ Sinhalese là ngôn ngữ quốc gia.
Ngoài ra chính phủ của người Sinhalese còn thi hành một loạt chính sách kiềm chế
người Tamil, ưu đãi nhiều mặt cho người Sinhalese. Chính phủ cho phép ưu đãi thí
sinh Sinhalese, nâng điểm chuẩn với người Tamil trong chế độ thi tuyển sinh đại học.
Chính phủ còn thực hiện chính sách di dân lên các vùng phía Bắc và Đông Bắc, nơi
người Tamil định cư, gây nên sự bất mãn sâu sắc trong người Tamil. Vào cuối những
năm 1950, ở Xrilanka đã bùng phát xung đột giữa người Sinhalese và người Tamil
lần thứ nhất. Từ đó về sau, cuộc đấu tranh của người Tamil nhằm bảo vệ các lợi ích
dân tộc của họ diễn ra liên tục. Đến đầu những năm 1970, phong trào độc lập dân tộc
đã hình thành trong người Tamil. Năm 1972 ba chính đảng lớn của người Tamil hợp
nhất thành Mặt trận liên hợp Tamil, đề ra mục tiêu thành lập một nhà nước độc lập.
Các tổ chức bạo lực vũ trang như Những con hổ mới Tamil, Mặt trận giải phóng
Tamil Eelam cũng lần lượt được thành lập. Năm 1975, Những con hổ mới Tamil đổi
tên thành Những con hổ giải phóng Tamil và ám sát thị trưởng thành phố Kufua mở

màn cho những hoạt động bạo lực. Vào tháng 8 năm 1983, người Sinhalese trong một
lần xung đột đã giết hơn 300 người Tamil. Khoảng 100 ngàn người Tamil phải tị nạn
tới các bang miền Nam Ấn Độ. Lực lượng Những con hổ giải phóng Tamil đã đáp lại
bằng việc phát động một cuộc chiến tranh du kích, tấn công trả đũa vào người
Sinhalese và lực lượng an ninh chính phủ ở phía Bắc và phía Đông Xrilanka. Từ đó,
hai bên tiến hành nhiều cuộc giao tranh quyết liệt.
Những bang miền Nam Ấn Độ có số đông người Tamil sinh sống đã giúp đỡ,
ủng hộ cơ sở vật chất, quân trang quân dụng cho những người cùng dòng máu với
mình ở Xrilanka. Chính phủ Ấn Độ cũng lên tiếng bênh vực cho những người Tamil
ở bên kia bờ biển. Mặc dù vậy, Ấn Độ và Xrilanka đã có nhiều nỗ lực giải quyết
xung đột. Hai nước đã ký kết một hiệp định hòa bình, ngăn chặn xung đột bạo lực
giữa 2 nhóm dân tộc vào tháng 7 năm 1987. Theo hiệp định, một lực lượng giữ gìn
hòa bình Ấn Độ làm trung gian thay thế cho quân đội Xrilanka đóng ở bán đảo
Jaffua. Hiệp định cũng bao gồm việc thành lập một khu tự trị của người Tamil ở phía
Bắc và phía Đông các tỉnh.
Các đảng phái của người Sinhalese phản đối chống lại việc triển khai quân đội
Ấn Độ ở Xrilanka. Họ phát động phong trào bạo loạn làm mất ổn định tình hình đất
nước. Cuối cùng sự can thiệp của Ấn Độ đã không đem lại hòa bình cho 2 nhóm dân
tộc. Lực lượng giữ gìn hòa bình của Ấn Độ về nước vào tháng 4 năm 1990. Nhiều
trận đánh ác liệt diễn ra giữa quân đội Xrilanka và LTTE trong những năm 1990.
Đặc biệt nó trở thành một cao trào khi Tổng thống Ranasinghe Premadasa bị ám sát
trong lễ diễu hành ngày 01 tháng 5 năm 1993. Chính phủ Xrilanka đã buộc trách
nhiệm cho các lực lượng LTTE. Từ đó đến nay mâu thuẫn dân tộc Sinhalese và
Tamil ngày một trở nên gay gắt.
Trước sức ép của cộng đồng quốc tế, nhiều cuộc đàm phán được mở ra nhưng
rồi quá trình thương lượng lại đi vào bế tắc vì lập trường của hai bên quá khác biệt.
Đến cuối năm 1995, xung đột li khai dân tộc đã trở thành một cuộc nội chiến. Quân
đội Xrilanka phản công quyết liệt, giành lại thành phố Jaffua, thành phố mà LTTE
chiếm giữ từ 1985. Đến giữa những năm 1996, quân chính phủ đã kiểm soát được
bán đảo Jaffua nhưng lực lượng LTTE vẫn còn rất mạnh. Họ tiếp tục tấn công vào

lực lượng quân chính phủ ở phía Bắc và phía Đông của đất nước. Các hoạt động bạo
lực diễn ra liên miên không dứt. Các lực lượng li khai với nòng cốt Những con hổ
giải phóng Tamil trở thành lực lượng quân sự đối kháng trực tiếp với quân chính
phủ. Cho đến năm 2000, LTTE tuyên bố họ có nhiều căn cứ và đã ám sát khoảng
150 quan chức chính trị Xrilanka. Lực lượng li khai này hiện nay vẫn tiếp tục mục
tiêu độc lập của mình. Tháng 10 năm 2006 cuộc đàm phán giữa Chính phủ Xrilanka
và LTTE đang diễn ra tại Giơnevơ. Có khả năng Chính phủ Xrilanka sẽ chấp nhận
một khu tự trị đặc biệt cho người Tamil. Kể từ vòng đàm phán cuối cùng giữa hai
bên tại Thụy Sĩ, ít nhất có 2850 người bị sát hại. Cả hai bên đều đổ lỗi cho nhau về
tình trạng đẫm máu này trong cuộc chiến kéo dài ba thập kỷ của LTTE vì một nền
độc lập cho người Tamil ở đất nước đa phần là người Sinhalese [41].
Tương tự như các thế lực li khai của người Tamil ở Xrilanka còn có hiện
tượng li khai Chesnia ở Nga cũng thuộc loại này. Từ giữa những năm 1990 trở lại
đây, các thế lực li khai Chesnia không ngừng tiến hành các hoạt động quân sự và
khủng bố hết sức đẫm máu nhằm mục đích đòi độc lập. Hiện nay về cơ bản Chính
phủ Nga đã khống chế được tình hình ở Chesnia. Nhưng để giải quyết triệt để vấn
đề Chesnia thì còn cần nhiều thời gian.
Tại khu vực Đông Nam Á, hiện tượng li khai dân tộc của người Aceh ở
Inđônesia, người Moro ở Philippine cũng thuộc loại hình đối kháng quân sự.

1.3.2. Loại hình li khai dân tộc tương tác.
Loại hình li khai dân tộc tương tác chỉ hiện tượng li khai dân tộc của các dân
tộc khác nhau bên trong một quốc gia độc lập có chủ quyền. Các thế lực li khai tìm
cách gạt bỏ lẫn nhau nhằm thành lập nhà nước độc lập riêng rẽ. Điểm nổi bật của
loại hình li khai tương tác là các thế lực li khai dân tộc ở trong tình trạng xung đột
đều không phải là lực lượng bảo vệ sự thống nhất quốc gia. Mục tiêu tranh giành của
các bên là lãnh thổ và quyền thành lập một nhà nước độc lập. Điều chú ý là trong
hiện tượng li khai dân tộc thuộc loại hình này, đằng sau hai bên hoặc nhiều bên xung
đột đều có sự ủng hộ của các thế lực bên ngoài.

Cuộc nội chiến ở Bosnia - Hersegovina ở Nam Tư là thí dụ điển hình thuộc
loại hình li khai dân tộc tương tác. Trong những năm 1990, Nam Tư cũ đi tới tan rã
trong chế độ dân chủ đa đảng mà vấn đề li khai dân tộc là động lực cơ bản dẫn tới
tình trạng chia rẽ trong Liên bang Nam Tư. Tuyên bố độc lập của Slovenia, Croatia
và rút ra khỏi Liên bang Nam Tư đã đặt các thành viên còn lại của Nam Tư và cộng
đồng thế giới trước một sự việc "đã rồi". Hàng loạt vấn đề đặt ra không ai có thể trả
lời ngay được. Việc tuyên bố đơn phương độc lập có đủ cơ sở pháp lý để quốc tế
công nhận hay không? Liên bang Nam Tư với tính chất là một chủ thể có quyền bảo
vệ sự toàn vẹn lãnh thổ của mình hay không. Quyền dân tộc tự quyết tách ra có giới
hạn đến đâu?
Bosnia - Hersegovina không giống với các nước cộng hòa khác của Nam Tư
cũ, mà là một nước cộng hòa do ba tôn giáo, hai dân tộc và một quần thể Hồi giáo
cấu thành. Từ những năm 1990, việc chính đảng hóa trên cơ sở dân tộc và tín
ngưỡng tôn giáo do diễn biến đa nguyên hóa chính trị ở Bosnia - Hersegovina tạo
thành đã làm cho nước này lâm vào cuộc nội chiến triền miên. Cuộc chiến tranh li
khai dân tộc, tôn giáo này kéo dài bốn năm, từ năm 1992 đến cuối năm 1995 khi các
bên khi ký Hiệp định Dayton(1). Trong cuộc chiến tranh này, người Croat và người
Hồi giáo đã tiến hành một cuộc nội chiến cực kỳ tàn khốc nhằm triệt để phân rõ mốc
giới của mỗi bên. Họ đã thực hiện một cuộc thanh lọc sắc tộc nhân danh sự toàn vẹn
lãnh thổ và thống nhất dân tộc, tôn giáo. Các bên đã xua đuổi và tàn sát trên quy mô
lớn với thường dân vô tội; cưỡng ép tập thể có tổ chức phụ nữ gọi là dị tộc, dị giáo;
hình thành nên hoạt động khủng bố thù hận dân tộc. Trong cuộc tàn sát, giao tranh
lãnh thổ kiểu chủ nghĩa dân tộc cực đoan này, ở Bosnia - Hersegovina đã hình thành
nên ba phái. Người theo đạo Thiên Chúa cho mình là người Croatia, người theo
Chính Thống giáo cho mình là người Serb, còn người theo đạo Hồi tự tách thành
một nhóm đặc biệt.
Với sự chi phối của Liên Hợp Quốc, đặc biệt là của Mỹ, căn cứ vào Hiệp định
Dayton(2), Bosnia - Hersegovina cuối cùng trở thành một nước do người Hồi giáo và
người Croat hợp thành cùng tồn tại bên cạnh nước cộng hòa của người Serb. Mỗi
một nhóm sắc tộc ở Bosnia - Hersegovina lại mâu thuẫn với hai nhóm khác và tạo

nên tình trạng chiến tranh của mọi người chống lại nhau. Cốt lõi gây ra xung đột là
mâu thuẫn giữa người Hồi giáo và người Serb, mâu thuẫn người Hồi giáo và người
Croat. Cuộc chiến tranh li khai ở đất nước này kéo dài từ năm 1992-1995. Số nạn
nhân bị chết trong các cuộc xung đột lên tới hàng chục ngàn người. Số lượng người
tị nạn lên tới hàng triệu người. Trách nhiệm gây ra các cuộc xung đột li khai dân tộc
thuộc về các phe phái dân tộc của các nước cộng hòa. Các phe phái này lôi kéo, kích
động quần chúng tham gia giành chính quyền, đòi lãnh thổ và quyền sở hữu của
cộng đồng. Không một bên nào bảo vệ sự thống nhất chung.
Trong toàn bộ nội chiến Bosnia - Hersegovina đằng sau xung đột 3 bên đều có
lực lượng quốc tế ủng hộ trực tiếp hay gián tiếp. Đằng sau người Serb là các nước
Đông Chính giáo như Nga, Hy Lạp; đằng sau người Croat là các nước Thiên Chúa
giáo như Cộng hòa Liên bang Đức, Ý; đằng sau người Hồi giáo là thế giới Hồi giáo
và các lực lượng phương Tây trong đó có Mỹ [10, tr. 96].
Thuộc loại hình li khai tương tác còn có cuộc tranh chấp Hy Lạp và Thổ Nhĩ
Kỳ ở Sip, một đảo rộng trên 9 nghìn km 2. Người Hy Lạp di cư sớm nhất vào đảo
này. Còn người Thổ Nhĩ Kỳ bắt đầu di cư vào đảo này từ thế kỷ XVI trong thời kỳ
đế quốc Oxman thống trị. Người Hy Lạp, người Thổ Nhĩ Kỳ tuy có tín ngưỡng, tôn
giáo khác nhau nhưng trong lịch sử chưa từng xuất hiện tranh chấp dân tộc lớn. Sau
khi đế quốc Oxman tan rã, Anh đã chiếm đóng Sip và lợi dụng người Thổ Nhĩ Kỳ để
chế ngự phong trào thành lập nhà nước độc lập của người Hy Lạp, làm cho mâu
thuẫn giữa người Hy Lạp và người Thổ Nhĩ Kỳ trở nên gay gắt, dẫn đến xung đột
dân tộc vào cuối những năm 1950. Năm 1959 trên cơ sở đàm phán ba bên Anh, Hy
Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ, các nước đã xác định phương án thành lập quốc gia độc lập Sip
và thực hiện nguyên tắc hai dân tộc Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ cùng cầm quyền. Nhưng
kết cấu nhà nước do lực lượng bên ngoài áp đặt và thể hiện lợi ích của 3 nước Anh,
Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ, đồng thời với sự can thiệp của Liên Hợp Quốc, Hy Lạp và Thổ
Nhĩ Kỳ cùng đem quân giúp người Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ ở đảo Sip. Cuối cùng dẫn
đến cuộc chiến tranh giữa hai nước Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ trên đảo Sip năm 1974.
Thổ Nhĩ Kỳ chiếm khoảng 37% lãnh thổ miền Bắc đảo. Năm 1975 Thổ Nhĩ Kỹ
thành lập bang của người Thổ Nhĩ Kỳ trong nước Cộng hòa Sip, bầu ra thống đốc

bang, thành lập nghị viện bang. Năm 1977 hai bên đạt được thể chế mới của nhà
nước Sip, nước Cộng hòa Liên bang Sip. Năm 1983 nghị viện bang Thổ Nhĩ Kỳ
thông qua quyết định độc lập, tuyên bố thành lập nước Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ Bắc
Sip. Thổ Nhĩ Kỳ lập tức công nhận và trao đổi đại sứ. Từ đó nước Cộng hòa Thổ Nhĩ
Kỳ Bắc Sip trở thành nước cộng hòa trong Cộng hòa Liên bang Sip. Vấn đề Sip đã
trở thành vấn đề lớn mà Liên Hợp Quốc, Liên minh châu Âu, Thổ Nhĩ Kỳ và Hy
Lạp phải đối mặt.

1.3.3. Loại hình li khai dân tộc thống nhất xuyên biên giới
Loại hình li khai dân tộc thống nhất xuyên biên giới chỉ việc một dân tộc
trong lịch sử vốn là đồng nhất nhưng thực tế hiện tại lại thuộc về một nước hay nhiều
nước khác nhau, tiếp giáp nhau. Xuất phát từ những nguyên nhân chính trị nào đó,
những thế lực li khai muốn thông qua hoạt động vũ trang bạo lực để thực hiện mục
tiêu thành lập một nhà nước độc lập hay tự trị. Các thế lực li khai dân tộc thuộc loại
hình này có ảnh hưởng xuyên quốc gia và đặc điểm hợp tác xuyên biên giới. Hoạt
động li khai dân tộc của nó làm nguy hại đến tính toàn vẹn lãnh thổ của một số quốc
gia và khu vực.
Tiêu biểu nhất thuộc loại hình li khai dân tộc thống nhất xuyên biên giới là
phong trào đòi độc lập nhằm hình thành nhà nước của người Kurd ở khu vực Trung
Đông. Người Kurd là một tộc người lớn thứ tư chỉ sau người Arab, người Thổ Nhĩ
Kỳ và người Ba Tư. Dân số tộc người khoảng 25 triệu, người Kurd theo đạo Hồi, cư
trú tại bốn nước: Thổ Nhĩ Kỳ, Iran, Iraq và Xiri. Từ thế kỷ XVI, phần lớn người
Kurd nằm dưới quyền thống trị của đế quốc Oxman, một phần nằm dưới quyền
thống trị của người Ba Tư. Đến cuối thế kỷ XIX đế quốc Oxman sụp đổ và bị thu
hẹp, ý thức dân tộc của người Kurd bắt đầu trỗi dậy. Điều này thu hút sự chú ý của
các cường quốc thực dân châu Âu. Chúng nhăm nhe dòm ngó lãnh thổ của đế quốc
Oxman. Anh và Nga Sa hoàng bắt đầu thực thi nhiều kế hoạch nhúng tay vào công
việc nội bộ của đế quốc Oxman. Một trong những kế hoạch là lợi dụng vấn đề người
Kurd. Sang thế kỷ XX, người Kurd thành lập tổ chức chính trị và đề xuất yêu cầu
chính trị, yêu sách về quyền dân tộc. Sau Chiến tranh thế giới lần thứ nhất, đế quốc