Luận văn chất trữ tình trong tản văn của phan thị vàng anh, đỗ bích thúy, nguyễn ngọc tư

  • pdf
  • 97 trang
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ YẾN

CHẤT TRỮ TÌNH TRONG TẢN VĂN
CỦA PHAN THỊ VÀNG ANH, ĐỖ BÍCH
THÚY, NGUYỄN NGỌC TƯ

Chuyên ngành

: Văn học Việt Nam hiện đại

Mã số

: 60.22.01.21

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN

Người hướng dẫn khoa học: TS. Chu Văn Sơn

HÀ NỘI NĂM 2017

LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, cho phép tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới
người thầy của tôi: Thầy giáo – TS Chu Văn Sơn, người đã tận tình hướng
dẫn, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình làm luận văn.
Tiếp theo, tôi xin trân trọng gửi lời cảm ơn trường Đại học Sư phạm Hà
Nội, phòng Sau Đại học, khoa Ngữ Văn, các thầy cô giáo, gia đình, bạn bè đã
quan tâm, động viên, giúp đỡ và tạo điều kiện cho tôi trong suốt quá trình học
tập và hoàn thành luận văn.
Do điều kiện và thời gian còn hạn chế, đề tài nghiên cứu không tránh
khỏi những sơ xuất và thiếu sót. Tôi mong nhận được sự đóng góp, bổ sung từ
phía các thầy cô, các bạn để luận văn được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 6 năm 2017
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Yến

MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1
1. Lí do chọn đề tài ....................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề .......................................................................................... 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .......................................................... 4
4. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................ 5
5. Đóng góp của luận văn ............................................................................ 5
6. Cấu trúc của luận văn ............................................................................. 6
PHẦN NỘI DUNG .......................................................................................... 7
Chương 1: TẢN VĂN VÀ QUAN NIỆM CỦA PHAN THỊ VÀNG
ANH, ĐỖ BÍCH THÚY, NGUYỄN NGỌC TƯ VỀ CHẤT TRỮ TÌNH
TRONG TẢN VĂN...................................................................................... 7
1.1. Tản văn ............................................................................................... 7
1.1.1. Khái niệm ..................................................................................... 7
1.1.2. Đặc trưng...................................................................................... 8
1.1.3. Tản văn trong đời sống văn học đương đại .............................. 12
1.2. Chất trữ tình .................................................................................... 14
1.2.1. Chất trữ tình ............................................................................... 14
1.2.2. Trữ tình trong văn xuôi – một dạng thức giao thoa thể tài ..... 15
1.2.3. Chất trữ tình trong tản văn ....................................................... 16
1.3. Quan niệm của Phan Thị Vàng Anh, Đỗ Bích Thúy, Nguyễn
Ngọc Tư về chất trữ tình trong tản văn ............................................... 17
1.3.1. Phan Thị Vàng Anh ................................................................... 17
1.3.2. Đỗ Bích Thúy ............................................................................. 19
1.3.3. Nguyễn Ngọc Tư ........................................................................ 20
Chương 2: CHẤT TRỮ TÌNH NHÌN TỪ

PHƯƠNG DIỆN NỘI

DUNG CẢM HỨNG .................................................................................. 24

2.1. Cảm hứng về quê hương ................................................................. 24
2.2. Cảm hứng về thân phận con người ............................................... 37
2.3. Cảm hứng về thời thế ...................................................................... 45
Chương 3: CHẤT TRỮ TÌNH NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN HÌNH
THỨC NGHỆ THUẬT ............................................................................. 56
3.1. Hình tượng cái tôi trữ tình ............................................................. 56
3.2. Cách kiến tạo hình ảnh ................................................................... 61
3.3. Giọng điệu ........................................................................................ 67
3.4. Ngôn ngữ nghệ thuật ....................................................................... 72
PHẦN KẾT LUẬN ........................................................................................ 84
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 87

1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Tản văn là một thể loại văn học xuất hiện từ rất sớm. Tuy nhiên,
tản văn gần như không được để tâm đến thậm chí bị coi là thể loại “đi ngoài
lề” đời sống văn học. Ở Việt Nam, chỉ từ 1986 trở đi , tản văn mới được chú ý
đến và mới thực sự là giai đoạn “lên ngôi” của tản văn. Những công trình
nghiên cứu, phê bình về tản văn còn chưa nhiều. Do vậy, chúng tôi mạnh dạn
đi sâu khai thác mảnh đất tản văn vẫn đang còn mới mẻ này.
1.2. Trong hai thập kỉ gần đây, nền văn học Việt Nam đã và đang “tự
làm mới mình” với sự xuất hiện của một thế hệ các nhà văn trẻ đầy tài năng,
giàu tâm huyết. Đặc biệt sự xuất hiện của nhiều cây bút nữ đã tạo nên một
luồng sinh khí mới cho nền văn học nước nhà. Trên văn đàn, Phan Thị Vàng
Anh, Đỗ Bích Thúy, Nguyễn Ngọc Tư đều là những tài năng trẻ độc đáo được
bạn đọc vô cùng yêu thích và được ghi nhận bởi nhiều giải thưởng có uy tín
của giới văn học. Đã có không ít công trình tìm hiểu về truyện ngắn, tiểu
thuyết của Phan Thị Vàng Anh, Đỗ Bích Thúy, Nguyễn Ngọc Tư nhưng chưa
có công trình nào nghiên cứu, đề cập một cách cụ thể, toàn diện, có hệ thống
đến tản văn của ba tác giả đó. Đọc tản văn Phan Thị Vàng Anh ta thấy một
cây bút nữ thông minh, sắc sảo, một thái độ nhập cuộc đầy xông xáo. Đọc tản
văn Đỗ Bích Thúy lại để lại dấu ấn của một chất văn đằm thắm, ăm ắp tình
người. Điều đặc biệt nữa, đọc tản văn Đỗ Bích Thúy ta như lạc vào một
không gian văn hóa miền núi với những cánh rừng, dòng sông ngập tràn
hương sắc của mận, trám.... Trong khi đó cũng đậm cái tình trong trang viết
nhưng tản văn Nguyễn Ngọc Tư mang màu sắc riêng của vùng miệt vườn
Nam Bộ ở sự chân chất, giản dị, hồn hậu. Văn Nguyễn Ngọc Tư rất đời
thường, đời đi vào văn tự nhiên như hơi thở. Người đọc đọc văn Nguyễn

1

Ngọc Tư có cảm giác gần gũi, thân thương, nhỏ nhẹ như nghe người con gái
quê đang vừa hái rau muống vừa kể chuyện vậy. Ba cây bút trẻ đầy nội lực,
ba gương mặt tản văn, ba phong cách khác nhau, ba vùng miền văn hóa khác
nhau tạo sức hút cho người viết luận văn mong muốn khám phá, nghiên cứu.
1.3. Tản văn là thể loại dung hợp cả hai yếu tố tự sự và trữ tình. Tuy
vậy, từ góc nhìn giới, tản văn nữ thiên về cảm xúc. Trong tản văn của nữ giới,
sự kiện ngổn ngang chỉ là bề mặt, mạch ngầm là cảm xúc, tình cảm. Cảm
hứng trữ tình là cảm hứng chủ đạo trong nhiều tập tản văn của các nhà văn
nữ. Do vậy, chúng tôi lựa chọn nghiên cứu ba cây bút nữ tiêu biểu là Phan Thị
Vàng Anh, Đỗ Bích Thúy, Nguyễn Ngọc Tư.
Đó là những lí do cơ bản thôi thúc chúng tôi lựa chọn đề tài: Chất trữ
tình trong tản văn của Phan Thị Vàng Anh, Đỗ Bích Thúy, Nguyễn Ngọc
Tư.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Lịch sử nghiên cứu về tản văn: Thể loại tản văn xuất hiện ở Việt
Nam từ đầu thế kỉ XX. Người mở đường cho thể loại tản văn có thể kể đến
Tản Đà - Nguyễn Khắc Hiếu. Tuy nhiên, gần như trong một giai đoạn dài, tản
văn là thể loại chưa được để tâm. Chỉ đến hai thập kỉ gần đây, văn đàn văn
học nở rộ nhiều cây bút viết tản văn và nhiều cuốn tản văn trở thành best
seller, người ta bắt đầu nhìn lại vị trí của thể loại này trong dòng văn học
đương đại. Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu về tản văn gần như chưa
có nhiều nếu không muốn gọi là còn rất ít.
Đến những năm 90 của thế kỉ XX mới xuất hiện một số công trình bàn
tới tản văn với tư cách như là một thể loại văn học. Có thể kể đến ý kiến của
Hoàng Ngọc Hiến trong Năm bài giảng về thể loại ( Nxb Giáo dục - 1998)
cho rằng tản văn là một tiểu loại của kí. Các tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử,
Nguyễn Khắc Phi trong Từ điển thuật ngữ văn học ( Nxb Giáo dục - 2004)

2

cũng xác định tư cách độc lập của tản văn, coi nó là một loại hình ngang hàng
với thơ, kịch, tiểu thuyết.
Năm 2008, xuất hiện công trình luận án của tiến sĩ Lê Trà My nghiên
cứu về tản văn: Tản văn Việt Nam thế kỉ XX từ cái nhìn thể loại đã góp
phần khái quát những vấn đề lí luận của thể loại tản văn cũng như quy luật tồn
tại và phát triển của nó trong đời sống văn học.
2.2. Lịch sử nghiên cứu về Phan Thị Vàng Anh, Đỗ Bích Thúy, Nguyễn
Ngọc Tư. Sáng tác văn chương nói chung và văn xuôi nói riêng từ thâp kỉ 90
trở lại đây đã đươc kiến thiết bởi những người viết trẻ, nhất là xuất hiện nhiều
cây bút nữ tài năng. Họ là lực lượng hùng hậu để tạo nên luồng gió mới cho
các sáng tác thế kỉ XXI. Chính vì vậy văn xuôi của Phan Thị Vàng Anh, Đỗ
Bích Thúy, Nguyễn Ngọc Tư giành được sự quan tâm đặc biệt của giới phê
bình.
Trong Không gian và khoảnh khắc văn chương, dịch giả Huỳnh
Phan Anh có viết “Vàng Anh là một tài năng trẻ, một nhà văn sớm định hình
ngay từ tập truyện ngắn đầu tay, một giải thưởng quốc gia dành cho nhà văn
trẻ”.Hay trong bài Sân chơi của Vàng Anh (Huỳnh Như Phương), cuốn
Những đổi mới cơ bản của văn xuôi sau 1975 (Nguyễn Thị Bình)... cũng
ghi nhận tài năng của Phan Thị Vàng Anh.
Với phong cách nghệ thuật đặc biệt, Đỗ Bích Thúy tìm cho mình một
lối đi riêng. Trong Cái duyên và sức gợi của hai nhà văn trẻ, nhà văn Chu
Lai:“Đọc Thúy, người ta có cảm giác như ăn một món ăn lạ”. Ngoài ra Đỗ
Bích Thúy và những sáng tác của chị còn được đề cập đến trong nhiều bài viết
: Cảm hứng cảm thương trong sáng tác của Đỗ Bích Thúy và Nguyễn
Ngọc Tư (Phạm Thùy Dương), Gặp hai nữ thủ khoa truyện ngắn trẻ (Điệp
Anh),...

3

Sức hút của nhà văn Nam Bộ Nguyễn Ngọc Tư khá lớn nên rất nhiều
bài viết, bài nghiên cứu về Nguyễn Ngọc Tư: Về Cà Mau thăm Nguyễn
Ngọc Tư (Trần Hữu Dũng), Tạp văn Nguyễn Ngọc Tư (Thanh Vân), Đọc
tạp văn Nguyễn Ngọc Tư quen mà lạ (Hạ Anh)....
Ngoài ra còn rất nhiều luận văn, bài báo viết về tài năng của ba cây bút
nữ Phan Thị Vàng Anh, Đỗ Bích Thúy, Nguyễn Ngọc Tư.
2.3. Lịch sử nghiên cứu về chất trữ tình trong tản văn của ba cây bút
nữ. Đến nay chưa có công trình nghiên cứu nào đi sâu vào khai thác chất trữ
tình trong tản văn của cả ba cây bút nữ trẻ đó. Những tài liệu trên đây đã cho
chúng tôi nhiều gợi ý bổ ích sâu sắc khi thực hiện đề tài này, và càng cho thấy
sự lựa chọn đối tượng nghiên cứu của luận văn là có cơ sở.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Chất trữ tình trong tản văn của ba nhà văn nữ
trẻ : Phan Thị Vàng Anh, Đỗ Bích Thúy, Nguyễn Ngọc Tư.
Phạm vi nghiên cứu: Trong khuôn khổ đề tài, đối tượng khảo sát chính
yếu của chúng tôi là các tác phẩm tản văn của ba nhà văn nữ:
Phan Thị Vàng Anh: Nhân trường hợp chị thỏ bông( NXB Hội nhà
văn, 2005), Ghi chép nhỏ của người cưỡi ngựa (NXB Trẻ, 2016). Tạp văn
Phan Thị Vàng Anh ( NXB Trẻ, 2016).
Đỗ Bích Thúy: Đến độ hoa vàng (Lienviet và NXB Văn Học, 2013),
Trên căn gác áp mái (NXB Phụ Nữ, 2011)
Nguyễn Ngọc Tư: Sống chậm thời @ (in chung với Lê Thiếu Nhơn,
NXB Thanh niên 2006), Biển của mỗi người (NXB Kim Đồng, 2008), Tạp
văn Nguyễn Ngọc Tư (NXB Trẻ, 2010), Yêu người ngóng núi (NXB Trẻ,
2011), Ngày mai của những ngày mai (NXB Văn học, 2015), Gáy người
thì lạnh ( NXB Trẻ, 2012), Đong tấm lòng (NXB Trẻ, 2015)...

4

4. Phương pháp nghiên cứu
Trong luận văn, chúng tôi có sử dụng kết hợp nhiều phương pháp khác
nhau, cụ thể:
Phương pháp phân tích tác phẩm theo đặc trưng thể loại: Căn cứ đặc
trưng thể loại tản văn từ đó đối chiếu tìm hiểu chất trữ tình trong tản văn của
ba cây bút nữ.
Phương pháp thống kê: Phương pháp này được sử dụng để thống kê
các yếu tố trong tản văn của ba cây bút nữ có liên quan đến việc thể hiện chất
trữ tình.
Phương pháp phân tích – tổng hợp: Phương pháp này dùng để tìm hiểu
nội dung, hình thức của các tác phẩm, phân tích chất trữ tình được thể hiện
trong tản văn của Phan Thị Vàng Anh, Đỗ Bích Thúy, Nguyễn Ngọc Tư và từ
đó rút ra những luận điểm chính của đề tài. Đây là phương pháp chủ yếu trong
quá trình nghiên cứu.
Phương pháp so sánh: So sánh chất trữ tình trong tản văn của Phan Thị
Vàng Anh, Đỗ Bích Thúy và Nguyễn Ngọc Tư từ đó thấy được nét đặc sắc
của thể loại tản văn nói chung cũng như tản văn của từng nhà văn nói riêng.
5. Đóng góp của luận văn
Về mặt lí luận: Luận văn đi sâu vào một trong những yếu tố cốt lõi tạo
nên diện mạo thể loại của tản văn là chất trữ tình. Đồng thời góp phần xác lập
một cơ chế, một quy trình có tính phương pháp luận để tìm hiểu đặc trưng của
chất trữ tình trong thể loại tản văn.
Về mặt thực tiễn: Luận văn góp phần nhận diện những đặc sắc trong
sáng tạo của ba cây bút nữ tiêu biểu ở thể loại tản văn. Qua đó làm rõ hơn
những đóng góp của họ đối với đời sống văn học.

5

6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, nội dung chính của
luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Tản văn và quan niệm của Phan Thị Vàng Anh, Đỗ Bích
Thúy và Nguyễn Ngọc Tư về chất trữ tình trong tản văn.
Chương 2: Chất trữ tình nhìn từ phương diện nội dung cảm hứng
Chương 3: Chất trữ tình nhìn từ phương diện hình thức nghệ thuật

6

PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: TẢN VĂN VÀ QUAN NIỆM CỦA PHAN THỊ
VÀNG ANH, ĐỖ BÍCH THÚY, NGUYỄN NGỌC TƯ VỀ
CHẤT TRỮ TÌNH TRONG TẢN VĂN
1.1. Tản văn
1.1.1. Khái niệm
Trong sự tương giao thể loại đa dạng hiện nay, việc phân chia các loại
hình sáng tác chỉ là “quy ước lỏng”, có khi chỉ là quan niệm. Trong sự dung
hợp thể loại, tản văn cũng mang trong bản thân nó những thể loại khác. Khảo
sát tản văn Việt Nam trên diện rộng sẽ thấy hiện tượng: tản văn thường nằm
trong các tập tạp văn, tùy bút, nhàn đàm, có khi ở các tập bút kí, tiểu luận,
kí… Vì vậy trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi coi tạp bút, tạp văn, tiểu
phẩm, nhàn đàm… như là một thể của tản văn.
Theo Từ điển tiếng Việt, Hoàng Phê định nghĩa: “Tản văn: 1. Văn
xuôi. 2. Loại văn gồm các thể kí và các thể văn khác, ngoài truyện, thơ và
kịch.” [50,857]
Theo Từ điển Hán Việt, Đào Duy Anh định nghĩa: “Tản văn, văn xuôi
không có vần”. [4, 233]
Từ điển thuật ngữ văn học – Nxb Đại học Quốc Gia, Hà Nội, năm
1997 là cuốn duy nhất đã xác định tản văn ngoài nghĩa là văn xuôi còn có
nghĩa là một thể loại văn học có những đặc trưng riêng biệt: “Tản văn là loại
văn xuôi ngắn gọn, hàm súc, có thể trữ tình, tự sự, nghị luận, miêu tả phong
cảnh, khắc họa nhân vật, lối thể hiện đời sống mang tính chất khám phá,
không nhất thiết đòi hỏi có cốt truyện phức tạp, nhân vật hoàn chỉnh, điều cốt

7

yếu là tái hiện được nét chính của các hiện tượng giàu ý nghĩa xã hội, bộc lộ
trực tiếp tình cảm, ý nghĩ của tác giả”.[29, 329]
Trong cuốn Năm bài giảng về thể loại, Hoàng Ngọc Hiến quan niệm
“Tản văn là một tiểu loại kí ngắn gọn, hàm súc theo tùy hứng của tác giả có
thể bộc lộ trữ tình, tự sự hoặc nghị luận, thường có mấy thứ đan quyện vào
nhau”.[32]
TS Lê Trà My trong bài viết Một cách nhìn về tản văn hiện đại - lời
giới thiệu cuốn Tản văn hiện đại Việt Nam có viết: “Tản văn là một thể loại
văn xuôi ngắn gọn, hàm súc. Nó không đòi hỏi phải có một cốt truyện đầy đủ
hay phải sáng tạo những nhân vật hoàn chỉnh. Cấu tứ tác phẩm được triển
khai từ một vài tín hiệu thẩm mỹ đóng vai trò trung tâm trong thế giới nghệ
thuật. Đó có thể là những hình ảnh, chi tiết hoặc một hiện tượng đời sống cụ
thể” [40]
Có rất nhiều các quan niệm xoay quanh khái niệm tản văn tuy nhiên
các quan niệm trên đều thống nhất: tản văn là một thể loại văn xuôi có tính
hàm súc, có thể là trữ tình, tự sự, nghị luận đan xen và đều bộc lộ trực tiếp
dấu ấn riêng, cái tôi tác giả. Các ý kiến về tản văn vẫn chưa ngã ngũ trên một
số phương diện. Nhưng trong phạm vi tư liệu có thể, chúng tôi chỉ khái quát
cách hiểu về tản văn như là cơ sở cho việc tìm hiểu, nghiên cứu chất trữ tình
trong tản văn của Phan Thị Vàng Anh, Đỗ Bích Thúy, Nguyễn Ngọc Tư.
1.1.2. Đặc trưng
1.1.2.1. Tản văn là những tác phẩm văn xuôi có dung lượng ngắn, hàm
súc và không có cốt truyện. Tản văn chủ yếu chú trọng vào chi tiết nên có thể
coi đây là một thể loại văn xuôi không đòi hỏi cốt truyện. Người viết tản văn
thường lựa chọn vài ba nét từ chất liệu cuộc sống, dựa vào đó để bày tỏ thế
giới nội tâm cũng như cảm xúc của mình về thế giới. Ví như từ một cành hoa
mận mà gợi nhớ bao kí ức tuổi thơ êm đềm, đầy ắm những kỉ niệm ngọt ngào

8

thơ ấu bên gia đình (Một loài hoa thương nhớ - Đỗ Bích Thúy); hình ảnh
một đám lục bình trôi khơi dậy bao suy tư, trăn trở về cuộc đời, về nỗi cơ đơn,
nỗi buồn xứ sở... (Lục bình – Nguyễn Ngọc Tư)... “Một sự việc xảy ra trên
đường phố ồn ào, một tiếng dương cầm vang lên giữa đêm khuya, một sắc
hoa ban muốt trắng ở vùng núi cao phía Bắc khi xuân về.... Tất cả những điều
tưởng chừng như tủn mủn, lặt vặt ấy đều có thể là cái cớ cho một tản văn ra
đời. Vấn đề còn lại chỉ là sức cảm, sức nghĩ, là độ rộng và chiều sâu trong
trường liên tưởng của người viết mà thôi. Nói gọn lại, tản văn là phải tạo ra
“một cái gì đó” có ý nghĩa tiếp sau cái cớ ban đầu kia;“một cái gì đó”, nói
kiểu công thức “chạm vào trái tim và khối óc người đọc” theo một cách riêng
của văn chương.”[46]. Với công phu tinh lọc như vậy, các chi tiết xuất hiện
trong tản văn thường rất hàm súc, giàu sức gợi. Có thể coi tản văn như là “thơ
tứ tuyệt” của văn xuôi.
1.1.1.2. Tản văn là loại tác phẩm được cấu tứ. Về phương diện kết cấu,
tản văn là loại tác phẩm trữ tình biểu lộ thế giới tinh thần của chủ thể. Nó
không coi trọng thông tin, sự kiện mà cốt là ở cách nhìn, cách lí giải sự kiện.
Kết cấu tác phẩm tản văn dựa trên sự liên tưởng kết nối các sự kiện, nhân vật,
hình ảnh, chi tiết vào với nhau. Các chi tiết trong tản văn thường không gắn
kết thành một bức tranh đời sống mang tính khách quan như trong các tác
phẩm tự sự mà chúng chỉ là những tín hiệu bộc lộ chủ thể nhà văn bởi nghệ
thuật tản văn như đã nói là nghệ thuật biểu hiện. Giả Bình Ao nói nghệ thuật
tản văn là “nghệ thuật của biểu hiện chứ không phải đòi bạn tái hiện”. Do
vậy, quan hệ giữa các chi tiết thường là quan hệ liên tưởng nhờ sự tưởng
tượng phóng túng, bay bổng của nhà văn tạo nên ý tưởng độc đáo cho tác
phẩm. Cấu tứ trong tản văn chủ yếu dựa trên sự liên tưởng này. Những điều
tưởng như tản mạn, ngẫu hứng kiểu “trà dư tửu hậu” lại được kết nối tạo
thành một câu chuyện hấp dẫn. Tuy nhiên, những câu chuyện ấy nhiều người

9

viết nhưng không phải ai viết cũng hay, cũng hấp dẫn được bạn đọc. Tản văn
có thể coi là thể loại có vẻ dễ viết nhưng khó hay. Muốn tạo ra những tác
phẩm tản văn hay đòi hỏi trình độ người viết phải tạo ra một cấu tứ, một tổ
chức mang tính nghệ thuật cao.
1.1.1.3. Tản văn bộc lộ trực tiếp cái “tôi” của tác giả. Đây là đặc điểm
nổi bật nhất của tản văn so với các thể loại khác. Xét một cách khách quan, ở
thể loại văn học nào thì cái tôi nghệ sĩ của tác giả cũng ít nhiều in dấu trong
tác phẩm. Ở truyện ngắn, tiểu thuyết, cái tôi của nhà văn ẩn mình vào những
hình tượng nhân vật. Ở thơ, cái tôi nhà thơ có phần bộc lộ rõ hơn so với
truyện ngắn và tiểu thuyết, tuy nhiên vẫn ẩn mình dưới hình tượng nhân vật
trữ tình. Ở tản văn, nhà văn trực tiếp cất lên tiếng nói, như nói trực tiếp câu
chuyện, quan điểm của chính mình. Ở tản văn, người viết văn công khai với
tư cách là chủ thể lời nói nghệ thuật và biến mình trở thành hình tượng nhân
vật. Nhà tản văn nổi tiếng người Trung Quốc Tiền Cốc Dung có từng viết về
đặc trưng của tản văn như sau: “Vốn dĩ mọi tác phẩm văn học đều in dấu tính
tình, phẩm cách của tác giả nhưng ở thơ, tiểu thuyết, kịch, tác giả thường ẩn
mình đi, bọc mình lại khiến bạn đọc không dễ gì thấy ngay được diện mạo
thật của họ. Còn tản văn thì không thế. Tác giả của chúng không hề tô điểm,
trang sức mà cứ trần trụi ra trong mắt bạn đọc. Hễ điều gì nói ra đều là
những điều phát tự lòng mình, không một chút giả dối, điểm tô. Tác giả
dường như thủ thỉ tự nói một mình, tự thổ lộ nỗi niềm, hoặc như trút bầu tâm
sự với người quen cũ lâu ngày không gặp lại. Qua tác phẩm của họ, bạn đọc
thấy ngay được con người họ, thấy ngay được bản sắc, bản tướng của họ.
Cho nên tản văn là tác phẩm thấy được tính tình tác giả rõ nhất, do vậy dễ
viết nhất mà cũng khó viết nhất. Những ai không thực sự có tính tình, hoặc
không thực sự có lời muốn ngỏ thì tốt nhất là không nên viết tản văn.”[16].
Dựa trên nguyên tắc tự biểu hiện, người viết tản văn thường có xu hướng lấy

10

ngay chính cuộc sống của mình ra làm chất liệu để xây dựng tác phẩm.. Do
đó, sức mạnh của tản văn trước hết là nhân cách, bản lĩnh, tầm tư tưởng, cách
nhìn, cách cảm và sự uyên bác của người cầm bút. Đọc tản văn của Tản Đà,
Tô Hoài, Nguyễn Tuân, Phan Thị Vàng Anh, Đỗ Bích Thúy, Nguyễn Ngọc
Tư ... ta như được nghe kể vể cuộc sống của chính tác giả. Hình tượng tác giả
như được tái hiện rõ nét qua từng trang văn.
1.1.1.4. Tản văn có cách thức biểu hiện đa dạng: Tản văn là thể văn tự
do, phóng túng nhất. Tất cả các yếu tố của thể loại, đối với tản văn đều hết
sức tự do, bất luận là chọn đề tài, lập ý hay bố cục kết cấu, hay vận dụng thủ
pháp biểu hiện... Tản văn có thể có nhiều phong cách: nghiêm túc, cười cợt,
trữ tình, chính luận, triết lí... Cách viết tản văn đa dạng, có thể tự sự, trữ tình,
nghị luận, hoặc pha xen các cách viết khác nhau. Giả Bình Ao từng nói: “ Tản
văn là nghệ thuật bay, nghệ thuật bơi, nó tự do thoải mái”. Tản văn là thể văn
cho phép người viết thỏa sức khai thác đề tài ở mọi lĩnh vực đời sống, không
hạn định bởi một khuôn mẫu nào. GS.TS Trần Đình Sử trong Tản văn Việt
Nam hiện đại – một thể loại bị lãng quên có viết: “Tản văn nói được bao
điều suy nghĩ, nung nấu, cảm xúc trong lòng về con người, thế sự, đạo lí, về
thiên nhiên, môi trường, chính trị, văn nghệ...” [52]. Tính tự do của tản văn
khiến tản văn có thể kết hợp nhiều kiểu loại chi tiết từ chi tiết xác thực đến chi
tiết hư ảo, hoang đường. Có thể nói, chưa có thể loại nào đạt tới sự ngẫu
hứng, phong phú và đa dạng như tản văn.
1.1.1.5. Giọng điệu tản văn: Tản văn được coi là thể loại văn ngẫu
hứng, văn chơi nên giọng điệu thường nhẩn nha, trò chuyện, tâm sự. Có người
nói đọc tản văn như “ nghe những lời nhỏ nhẹ của mẹ, của vợ, của bạn thân
quanh bàn trà, điếu thuốc”. Người viết tản văn có tâm thế nhàn tản, cái nhàn
của con người biết thoát khỏi những o ép đời thường, tìm tới sự thấu triệt sâu
sắc của lẽ đời. Tản văn thích hợp với sự ngâm ngợi, chiêm nghiệm, điềm tĩnh

11

mà đằm sâu. Thủ thỉ đấy, nhẩn nha đấy nhưng thầm trầm sâu sắc và đầy triết
lí.
1.1.1.6. Tản văn có nhiều loại hình khác nhau: Thường người ta hay
chia tản văn làm ba loại hình: Tản văn triết luận, tản văn hồi tưởng và tản văn
cảm thời. Tản văn triết luận thường đối thoại với bạn đọc về một vấn đề bàn
luận; tản văn hồi tưởng thường đậm màu sắc trữ tình với những hoài vọng về
quá khứ; tản văn cảm thời thường là những suy ngẫm về những vấn đề thời
cuộc, mang mầu sắc thế sự.
1.1.3. Tản văn trong đời sống văn học đương đại
Tản văn là một thể loại văn xuôi hiện đại được hình thành vào khoảng
thập kỉ thứ 2 của thế kỉ XX. Những yếu tố văn hóa, xã hội quyết định đến sự
ra đời của tản văn là: phong trào cổ vũ văn xuôi quốc ngữ, đời sống báo chí
sôi động, ý thức sâu sắc về cái tôi cá nhân. Người đi tiên phong trong sáng tác
tản văn phải kể đến Tản Đà, Nguyễn Văn Vĩnh, Nguyễn Bá Trác... Tản văn là
những sáng tác văn xuôi được viết bằng chữ quốc ngữ và chủ yếu in trên báo
chí sau tuyển chọn in thành tập.
Trước năm 1986, tản văn không được chú ý và thường được coi là thể
loại “đi ngoài lề” của đời sống văn học. Từ sau năm 1986, thời kì đổi mới đất
nước, đổi mới văn học, có thể nói đây là giai đoạn “ lên ngôi” của thể loại tản
văn. Tản văn đã có chỗ đứng xứng đáng trong đời sống văn học đương đại.
Năm 2005, khi quyển Tản mạn trước đèn của nhà văn Đỗ Chu nhận
giải thưởng văn học của Hội Nhà văn Việt Nam, văn học Việt Nam mở ra thời
kì tản văn nở rộ: Tản mạn trước đèn (Đỗ Chu), Nhân trường hợp chị thỏ
bông (Thảo Hảo), Ngẫu hứng sáng, trưa, chiều, tối (Tạ Duy Anh), Ngày
mai của những ngày mai (Nguyễn Ngọc Tư).... Trong bài báo Tản văn –
“món ăn nhanh” gây tranh cãi” (Lam Thu) đăng trên báo VN.Express
tháng 7/2015 có viết một đoạn: “Tản văn, tạp văn, tùy bút hay đoản văn trước

12

đây xuất hiện lác đác, nhưng trong một thập kỷ trở lại đây, thể loại này ngày
càng nhiều. Chỉ riêng Nhà xuất bản Trẻ đã in tới 46 cuốn trong ba năm. Sáu
tháng đầu năm nay, đơn vị này phát hành 18 đầu sách tản văn, với 32.000
bản được in ấn tại Hà Nội. Trung bình, mỗi đầu sách tản văn in 2.000 bản”.
[55]. Rất nhiều những cuốn tản văn trở thành bestseller của năm. Trong số
những cuốn sách Việt bán chạy nhất năm 2015 không thể không kể đến tác
phẩm Tản văn Đong tấm lòng của Nguyễn Ngọc Tư được đề cập đến trên
trang emdep.vn chuyên mục Xem – nghe – đọc [25]. Ngắn gọn, nhẹ nhàng,
giàu cảm xúc... có lẽ là ưu điểm chính khiến tản văn thu hút được người đọc
thời hiện đại trong cuộc sống hối hả, còn nhiều bận rộn.
Tản văn trở thành một thể loại khá phổ biến, dễ tiếp cận và có sự thâm
nhập vào đời sống con người một cách dễ dàng. Thể loại này khá “dễ tính”
thu hút được đông đảo đội ngũ sáng tác .Thời đại công nghệ tiên tiến, ai cũng
có thể viết tản văn và tự xuất bản trên mạng cá nhân của mình. Viết tản văn
trở thành một xu hướng trong sáng tác văn chương từ người không chuyên
cho đến các nhà văn, nhà thơ chuyên nghiệp. Vì hầu như tác giả nào cũng ít
nhất một lần viết tản văn. Nhiều tác giả đã gây dựng được tên tuổi của mình
từ thể loại tản văn như: miền Nam có Nguyễn Ngọc Tư, Phan Thị Vàng Anh,
miền Bắc có Đỗ Bích Thúy, Nguyễn Việt Hà, Nguyễn Trương Quý... Trong
khi Nguyễn Ngọc Tư có chất giọng riêng về đời sống miền Tây Nam Bộ thì
Phan Thị Vàng Anh lại thể hiện chất trí tuệ, sắc sảo với từng khía cạnh của
đời sống hiện đại. Nguyễn Trương Quý cung cấp hiểu biết về Hà Nội đương
thời thì Đỗ Bích Thúy đưa người đọc về miền sơn cước xa xôi... Nhiều cây
bút trẻ cũng chọn tản văn như một thể loại để khằng định tên tuổi của mình
như: Hamlet Trương, Iris Cao, Nguyễn Ngọc Thạch, Phan Ý Yên, Cấn Vân
Khánh... Tản văn như trở thành một “mảnh đất mới màu mỡ”cho nhiều người
thử sức. Ngay cả những người không thuộc ngành văn chương như: nhà sử

13

học Cao Huy Thuần, nhà khảo cổ học Nguyễn Thị Hậu, họa sỹ Phan Cẩm
Thượng, nhạc sỹ Dương Thụ, đạo diễn điện ảnh Việt Linh... đều là những cây
bút tản văn rất thú vị. Tuy nhiên, tản văn là thể văn dễ viết nhưng khó hay.
Họa sỹ, nhà văn Đỗ Phấn đã có lần tâm sự: “ Viết mấy chục năm mới nghiệm
thấy, sa vào cái thể văn ngăn ngắn be bé tưởng không đâu vào đâu ấy hóa ra
cần phải có một nội lực chữ nghĩa kinh người thì may ra mới viết được gọi là
tàm tạm” . Vì vậy, để khẳng định mình ở thể loại tản văn, các nhà văn đã phải
lao động rất nghiêm túc và không ngừng nghỉ.
Với tốc độ phát triển nở rộ cả về số lượng tác phẩm, số lượng người
đọc, số lượng người sáng tác, chứng tỏ tản văn đã chiếm một vai trò quan
trọng trong đời sống văn học đương đại. Mảnh đất tản văn có lẽ chính là nơi
lưu giữ những giá trị tinh thần để nuôi dưỡng tâm hồn, xúc cảm con người
trong cuộc sống hiện đại.
1.2. Chất trữ tình
1.2.1. Chất trữ tình
Về khái niệm “ trữ tình” có nhiều cách hiểu khác nhau. Trong đời sống
nói chung, với những người không chuyên sâu trong lĩnh vực văn hóa nghệ
thuật thì “trữ tình” được hiểu nôm na: “trữ” là thổ lộ, “tình” là cảm xúc, tình
cảm, trữ tình được hiểu là chỉ sự nên thơ, cái đẹp chan chứa cảm xúc... Đôi
khi người ta hay dùng nhiều cách nói khác nhau: “chất trữ tình”, “tính trữ
tình”, “yếu tố trữ tình”. Trong lĩnh vực văn hóa nghệ thuật, khái niệm trữ tình
được hiểu sâu rộng hơn.
Theo Từ điển tiếng Việt: “ Trữ tình: Có nội dung phản ánh hiện thực
đời sống bằng cách biểu hiện những ý nghĩ, xúc cảm, tâm trạng riêng của con
người, kể cả bản thân người nghệ sĩ, trước cuộc sống.” [50,1018]
Còn theo Từ điển Văn học có định nghĩa: “Trữ tình: Thuật ngữ chỉ
một trong ba phương thức biểu đạt của văn học( bên cạnh tự sự và kịch). Ở

14

đây cái được để lên hàng đầu là chủ thể phát ngôn và thái độ của nó đối với
cái được mô tả.” [33, 1854].
Theo Từ điển thuật ngữ văn học “Trữ tình (tiếng Pháp là lyricque) là
một trong ba phương thức thể hiện đời sống (bên cạnh tự sự và kịch) là cơ sở
cho một loại tác phẩm văn học... trữ tình phản ánh đời sống bằng cách bộc lộ
trực tiếp ý thức con người, nghĩa là con người tự cảm nhận thấy mình qua
những ấn tượng, ý nghĩ, cảm xúc chủ quan của mình đối với thế giới và nhân
sinh...” [29, 374]
Trong Giáo trình lý luận văn học có nhắc đến tác phẩm trữ tình và nội
dung của các tác phẩm trữ tình, trong đó khái niệm trữ tình được hiểu là sự
“miêu tả và biểu hiện thế giới chủ quan của con người với những cảm xúc,
tâm trạng và ý nghĩ trực tiếp”. [49, 189]
Căn cứ vào dữ liệu trên, ta có thể hiểu trữ tình là một khái niệm dùng
để chỉ một phương thức trong sáng tác văn học, nó chú trọng đến miêu tả cảm
xúc, tâm trạng, tình cảm chủ quan của chủ thể trữ tình. Chúng ta sử dụng cách
hiểu thống nhất này để nghiên cứu chất trữ tình trong tản văn của ba cây bút
nữ Phan Thị Vàng Anh, Đỗ Bích Thúy, Nguyễn Ngọc Tư trong những phần
tiếp theo.
1.2.2. Trữ tình trong văn xuôi – một dạng thức giao thoa thể tài
Nói đến tác phẩm trữ tình, người ta nghĩ ngay đến thơ. Tuy nhiên bên
cạnh thơ trữ tình còn có tùy bút, thơ văn xuôi, truyện ngắn trữ tình, tiểu thuyết
trữ tình. Đó là kết quả của quá trình phát triển lâu dài của lịch sử văn học.
“Bước sang các thế kỉ XIX – XX, trữ tình không còn đồng nhất với thơ như
trước nữa: các tố chất của tự sự (ví dụ: tính sự kiên) thâm nhập vào tác phẩm
thơ, đồng thời các tố chất của trữ tình thâm nhập vào văn xuôi, tạo nên những
thể tài lai ghép như thơ tự sự - trữ tình, văn xuôi trữ tình”[33, 1855]. Nhà
nghiên cứu người Nga Kuranop cũng cho rằng: “ Trong nền văn học hôm nay,

15