Lưu Trọng Lư trong phong trào Thơ Mới (1930 - 1945)

  • doc
  • 231 trang
1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong lịch sử phát triển của văn học Việt Nam, giai đoạn văn học nửa
đầu thế kỉ XX có một ý nghĩa vô cùng quan trọng. Nó đánh dấu một bước
ngoặt to lớn trong toàn bộ tiến trình văn học Việt Nam. Kể từ đây, nền văn
học bắt đầu vận hành theo quĩ đạo hiện đại hóa, thoát ra khỏi phạm trù văn
học trung đại, hòa nhịp với văn học thế giới. Trong giai đoạn văn học này,
cùng với sự hình thành và phát triển của nhiều trào lưu, trường phái văn học
hiện đại như Tự lực văn đoàn, văn học hiện thực phê phán…, sự ra đời và
phát triển hết sức rầm rộ của phong trào Thơ Mới đã đem lại một cuộc cách
mạng toàn diện trên lĩnh vực thơ ca nói riêng cũng như trên lĩnh vực văn học
và văn hóa nói chung. Bởi phong trào này có tầm vóc và vị trí đặc biệt quan
trọng trong tiến trình văn học hiện đại, nên cho đến nay nó vẫn là một đối
tượng nghiên cứu còn rất nhiều tiềm năng, mặc dù các công trình nghiên cứu
về Thơ Mới đã hết sức đa dạng và phong phú.
Khi nghiên cứu về phong trào Thơ Mới, các nhà nghiên cứu đã chú ý
đến rất nhiều hiện tượng tiêu biểu, được coi là đỉnh cao của Thơ Mới như Thế
Lữ, Xuân Diệu, Hàn Mạc Tử, Huy Cận, Nguyễn Bính… Tuy nhiên, sự hình
thành và phát triển của Thơ Mới còn do một phần đóng góp không nhỏ của
những cây bút thời kì đầu, những người tuy không tham dự vào những thời
khắc huy hoàng nhất của Thơ Mới, song đã lặng lẽ tìm tòi, khai phá, mở đường
cho Thơ Mới, những người đã thai nghén và nâng niu Thơ Mới từ thuở sơ khai,
những người đã tả xung hữu đột để bênh vực cho Thơ Mới trong cuộc chiến vô
cùng quyết liệt với thơ cũ, đó là Phan Khôi, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Thị
Kiêm… Trong thế hệ những người có công khai sinh ra Thơ Mới này, thì Lưu
Trọng Lư có một vị trí quan trọng hơn cả. Bởi ông không chỉ là một kiện tướng
tiên phong trên mặt trận lí luận phê bình, mà còn là một trong những tác giả

2
đầu tiên đã có những sáng tác thật sự thuyết phục, đem lại niềm hi vọng cho
Thơ Mới. Vị trí quan trọng, đóng góp to lớn của ông trong phong trào Thơ
Mới, những quan điểm nghệ thuật mới mẻ và tiến bộ, những đặc trưng của thế
giới nghệ thuật, phong cách nghệ thuật của Lưu Trọng Lư, cho đến nay, gần
như vẫn chưa được đề cập trong một công trình nghiên cứu xứng tầm.
Sự nghiệp sáng tác của Lưu Trọng Lư không chỉ thu hẹp trong phạm vi
phong trào Thơ Mới. Trước năm 1945, ngoài tham gia diễn thuyết, tranh luận
và sáng tác Thơ Mới, Lưu Trọng Lư còn viết truyện ngắn, tiểu thuyết. Sau năm
1945, ông tham gia nhiều hoạt động thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau: từ quản lí
văn hóa, văn nghệ, sáng tác thơ, đến viết kịch bản văn học, tiểu luận, phê
bình… Ở lĩnh vực nào ông cũng có những thành công nhất định. Tuy nhiên,
nói đến Lưu Trọng Lư, trước hết, người ta vẫn nghĩ đến một vị chiến tướng tiên
phong trong phong trào Thơ Mới với tập Tiếng thu bất hủ. Có thể nói, phong
trào Thơ Mới chính là mảnh đất đã làm nảy mầm và nuôi dưỡng hạt giống
nghệ thuật của Lưu Trọng Lư. Và sự nghiệp của ông gắn bó với phong trào
Thơ Mới, như một thứ hoa đẹp đẽ làm rực rỡ thêm cho vườn hoa Thơ Mới đầy
thanh sắc. Chính vì thế, để có thể đánh giá được một cách toàn diện hiện tượng
Lưu Trọng Lư, không thể không chú ý đến bức tranh toàn cảnh của phong trào
Thơ Mới. Do đó, chúng tôi đã lựa chọn vấn đề Lưu Trọng Lư trong phong
trào Thơ Mới (1930-1945) làm đề tài cho luận án của mình.
2. Lịch sử vấn đề
Nhắc đến phong trào Thơ Mới, bên cạnh các tên tuổi như Thế Lữ, Huy
Cận, Xuân Diệu, Hàn Mạc Tử, Nguyễn Bính…, người ta không thể không
nhắc đến Lưu Trọng Lư với phong cách thơ mơ màng, với tập Tiếng thu bất
hủ. Tuy nhiên, cho đến nay, những công trình nghiên cứu về Lưu Trọng Lư
vẫn còn ít ỏi, có thể nói là chưa thực sự xứng đáng với sự nghiệp sáng tác và

3
vai trò quan trọng của ông trong tiến trình văn học Việt Nam. Có thể tạm chia
các công trình nghiên cứu về Lưu Trọng Lư thành ba giai đoạn như sau:
2.1. Giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám
Là một trong những nhân vật tiên phong của phong trào Thơ Mới, ngay
từ khi công bố những bài thơ đầu tiên, Lưu Trọng Lư đã gây được sự chú ý
trên văn đàn. Năm 1935, trong bài viết “Một nhà Thơ Mới rất chú trọng về
âm điệu: Lưu Trọng Lư”, Lê Tràng Kiều đã khẳng định “Lưu Trọng Lư chính
là một người gieo hạt Thơ Mới vào đất Bắc” [75; 99] “cái mới trong thơ Lưu
Trọng Lư là “mới ở tình cảm, ở âm điệu, ở hình ảnh”. Tác giả cũng tinh tế
nhận ra nét đặc sắc của phong cách nghệ thuật, thế giới nghệ thuật thơ Lưu
Trọng Lư: “Thường thường người ta không hiểu được họ Lưu vì hồn nhà thi
sĩ như chỉ bàng bạc phưởng phất trong cái thế giới vô hình… trong một hơi
thở, một bóng trăng mờ, trong một vài vong hồn hay là những cái nhỏ nhặt
quá mà người thường bỏ qua: anh bước nặng, anh hát lớn, anh sẽ không bao
giờ tìm được nhà thi sĩ, động mạnh là hồn nhà thi sĩ sẽ tan ngay” [75;
102].“Cũng như Paul Verlaine, Lưu Trọng Lư đã tạo thành một lối thơ riêng,
hẳn là của mình, một lối thơ vừa nhẹ nhàng, ngây ngô vừa mơ hồ, bóng bẩy,
gợi những mối cảm vừa phe phẩy vừa thâm trầm, một lối Thơ Mới mẻ, trong
trẻo như nguồn mới chảy ra, một lối thơ mà vần điệu rất là phóng túng, biết
nương tựa vào nhau để tạo nên một khúc nhạc thánh thót làm cho người nghe
vừa vui vừa buồn” [75; 103]. Những nhận xét rất tinh tế của Lê Tràng Kiều,
có thể nói, đã bắt trúng những đặc điểm cơ bản nhất của hồn thơ Lưu Trọng
Lư.
Năm 1940, trong bài viết “Lưu Trọng Lư: thi sĩ giang hồ”, Trần Thanh
Mại đã phát hiện ra một phương diện rất quan trọng trong cá tính sáng tạo của
Lưu Trọng Lư, khẳng định Lưu Trọng Lư là một thi sĩ giang hồ. Chất giang

4
hồ toát ra từ chân dung Lưu Trọng Lư trong đời thực, từ lối sống, tính cách và
in đậm trong thơ ông., bắt nguồn sâu xa từ phong cảnh thiên nhiên nơi ông
sinh ra. Có thể nói, đây cũng là một nhận xét rất tinh về cá tính sáng tạo của
nhà thơ họ Lưu.
Trong tập đại thành về phong trào Thơ Mới- Thi nhân Việt Nam, tác giả
Hoài Thanh- Hoài Chân đã khẳng định những đặc trưng cơ bản của thế giới
nghệ thuật và cái tôi trữ tình, đặc trưng phong cách nghệ thuật của Lưu Trọng
Lư. Tác giả nhận xét, trong thơ Lưu Trọng Lư, cảnh thì mộng mà tình thì
thực: “Mộng! Đó mới là quê hương của Lư. Thế giới thực của ta với bao
nhiêu thanh sắc huy hoàng Lư không nghe thấy gì đâu. Sống giữa thế kỉ XX,
ngày ngày nện gót giày trên các con đường Hà Nội, mà người cứ mơ màng
thấy mình gò ngựa ở chốn xa xăm nào”. “Nhưng chuyện dầu chuyện mộng,
tình bao giờ cũng thực. Và mối tình chan chứa trong bài thơ bắt ta phải bồi
hồi”. Bằng cái nhìn tri âm, Hoài Thanh, Hoài Chân cũng khám phá ra, thơ
Lưu Trọng Lư chính là sự tiếp nối và kế thừa thơ ca truyền thống: “Lư chỉ có
một khúc đàn bình dị, một ít khúc đàn xưa, dầu có đổi điệu cũng vẫn là khúc
đàn xưa” [75; 52].
Nhận xét về Lưu Trọng Lư, Vũ Ngọc Phan chỉ ra: “Lưu Trọng Lư là
một thi sĩ đa tình và mơ mộng. Ông say sưa tất cả những cái đẹp của người và
tạo vật, tấm lòng ông lúc nào cũng thổn thức, trí não ông lúc nào cũng mơ
màng, ông đem xáo trộn thực với mộng, mộng với thực, thổ lộ nên những lời
thơ huyền ảo vô cùng”. “Lưu Trọng Lư là một người buồn, nên thơ ông, khi
đọc lên, buồn vô hạn”. Tác giả cho rằng, mơ mộng, sầu muộn, thành thực
chính là những nét riêng, làm nên sức hấp dẫn trong thơ Lưu Trọng Lư.
Tóm lại, trước năm 1945, thơ Lưu Trọng Lư thường được tiếp cận bằng
lối phê bình tri âm, phê bình ấn tượng. Qua phương pháp tiếp cận này, các

5
nhà phê bình đương thời với ông thường “lấy hồn ta để hiểu hồn người”, họ
thường khám phá ra những đặc trưng về thế giới nghệ thuật, về cá tính sáng
tạo, phong cách nghệ thuật của Lưu Trọng Lư, tìm thấy điểm thống nhất giữa
thơ và người. Những bài phê bình về Lưu Trọng Lư xuất hiện rất sớm (tập
Tiếng thu in năm 1939 song nhiều ý kiến về thơ ông đã có từ trước đó) đã góp
phần khẳng định kịp thời những đóng góp của ông trong buổi đầu Thơ Mới.
Tuy nhiên, bởi hầu hết các bài phê bình thơ Lưu Trọng Lư giai đoạn này là
phê bình ấn tượng, lại chưa có một độ lùi thời gian cần thiết, nên vẫn chưa
khái quát một cách toàn diện và hệ thống sự nghiệp thơ cũng như vị trí của
Lưu Trọng Lư trong phong trào Thơ Mới nói riêng và tiến trình văn học Việt
Nam nói chung.
2.2. Giai đoạn 1945-1975
Sau Cách mạng, cùng với sự chuyển biến của văn học, các nhà thơ lãng
mạn hầu hết đã đến với Cách mạng, Lưu Trọng Lư cũng là một đại diện tiêu
biểu. Trong xu thế đó, người ta muốn đoạn tuyệt với con người cũ, với cảm
xúc cũ. Nhìn lại phong trào Thơ Mới, Hoài Thanh trong Nói chuyện thơ
kháng chiến (1951) viết: “Những vần thơ buồn tủi bơ vơ ấy là những vần thơ
có tội. Nó xui người ta buông tay, cúi đầu do đó làm yếu sức ta và làm lợi cho
giặc. Sự thật khách quan là thế, xét về lý là thế. Song cũng nên thể tình cho
con người trong thơ cũ, nó đáng thương hơn là đáng trách”.
Trong tình hình ấy, các công trình nghiên cứu về Thơ Mới và thơ Lưu
Trọng Lư trước Cách mạng hầu như không có.
2.3. Giai đoạn 1954-1975
Ở miền Bắc, từ năm 1960, Thơ Mới được định giá lại trong một số
công trình lịch sử văn học và chuyên khảo. Các công trình đều nhắc đến Lưu
Trọng Lư như một tên tuổi tiêu biểu của phong trào Thơ Mới (Các công trình:

6
bộ lược thảo Lịch sử văn học Việt Nam- Nhóm Lê Quí Đôn, 1957; Văn học
Việt Nam (1930-1945), tập 5, 1962; Lịch sử văn học Việt Nam (1930-1945),
Nhóm tác giả Đại học Sư phạm Hà Nội, 1973. Đặc biệt, Phong trào Thơ Mới
của Phan Cự Đệ năm 1966 là một chuyên khảo khá lớn về phong trào Thơ
Mới. Tác giả nhận định về Lưu Trọng Lư: “Thi sĩ đã thành công trong việc
tạo ra một âm nhạc êm dịu gợi cảm như trong thơ tượng trưng Pháp”. Tuy
nhiên, Lưu Trọng Lư vẫn “giữ được một nhạc điệu rất Á Đông, rất Việt
Nam”. Ông nhấn mạnh, thơ Lưu Trọng Lư rất giàu nhạc điệu, “một thứ nhạc
điệu mơ màng và buồn xa vắng”. Và “thoát li thực tế đấu tranh, Lưu Trọng
Lư trốn vào tình và mộng. Thi sĩ sống bằng nội tâm nhiều hơn ngoại giới”
[12;212].
Ở miền Nam, văn học lãng mạn vẫn được đề cao. Lưu Trọng Lư được
nhắc đến trong các công trình nghiên cứu văn học sử như một nhà thơ tiêu
biểu của phong trào Thơ Mới. Trong Việt Nam văn học sử giản ước tân biên,
Phạm Thế Ngũ viết: Thơ Lưu Trọng Lư “tiếp tục nguồn thơ lãng mạn, êm
đềm của Tản Đà mà ông rộng ra: Say, mộng, tình, buồn, sầu vơ vẩn, nhớ bâng
khuâng...” và “Thơ ông như dòng suối hồn nhiên từ kẽ đá tuôn ra... nếu chỉ
nhằm thưởng thức một âm điệu, những ấn tượng thì tuyệt” [73; 57].
Phạm Thế Ngũ trong bài viết “Lưu Trọng Lư” đã nhận thấy vị trí của
Lưu Trọng Lư trong tiến trình văn học như là một chiếc cầu nối giữa truyền
thống và hiện đại, giữa phương Đông và phương Tây: tuy là người tiên
phong trong phong trào Thơ Mới, nhưng Lưu Trọng Lư “đã từ giai đoạn cũ
đi đến, tâm hồn mang nặng nhiều ảnh hưởng cũ, nhất là ảnh hưởng của Tản
Đà” [75; 104]. “Đừng tìm ở Lưu Trọng Lư- như ở Thế Lữ- một ý gì tân kì,
một thuyết gì đặc sắc mô phỏng ở cái tôi thơ Tây. Thơ ông là thơ thuần túy
đạo tình mà diễn tả tình cảm hoàn toàn bằng âm điệu ngôn ngữ Việt Nam”
[75; 104]. Trong bài viết này, Phạm Thế Ngũ cũng nhận xét, nhạc điệu dồi

7
dào chính là một nét đặc sắc, làm nên sức sống và sức hấp dẫn kì lạ trong
thơ Lưu Trọng Lư.
Trong công trình Việt Nam thi nhân tiền chiến, bài “Nhà thơ Lưu
Trọng Lư”, Nguyễn Tấn Long và Nguyễn Hữu Trọng cảm nhận về thơ Lưu
Trọng Lư: “Tiếng thơ của Lưu Trọng Lư là tiếng nói xa xôi nửa hư nửa thực.
Hồn thơ của Lư là những gì mờ ảo, huyền hoặc, xa xăm... Những cái nhìn
mông lung, những tiếng thở dài không trọn vẹn... Lưu Trọng Lư đã đưa người
đọc vào thế giới xa lạ: thế giới của mộng, của mơ, của nhớ thương” [32; 176].
2.4. Giai đoạn từ năm 1975 đến nay
Sau năm 1975, đặc biệt là sau 1986, cùng với xu hướng đổi mới lí luận
phê bình Việt Nam, phong trào Thơ Mới đã được định giá lại một cách khách
quan và công bằng. Những đóng góp của phong trào Thơ Mới cho tiến trình
văn học Việt Nam được khẳng định. Thơ Mới được nghiên cứu một cách toàn
diện trên tất cả các mặt nội dung và nghệ thuật. Với tư cách là một nhà thơ
tiêu biểu của phong trào Thơ Mới, Lưu Trọng Lư cũng là một tác giả thu hút
được nhiều sự quan tâm chú ý của các nhà nghiên cứu. Có thể phân loại các
công trình nghiên cứu về Lưu Trọng Lư thành hai loại:
Các công trình nghiên cứu chung về phong trào Thơ Mới: Thơ Mới
những bước thăng trầm- Lê Đình Kỵ, 1993; Một thời đại trong thi ca (về
phong trào Thơ Mới 1932-1945), 2002; Văn học Việt Nam 1900- 1945, 2000.
Một số tiểu luận nghiên cứu về thơ Lưu Trọng Lư và tập Tiếng thu: Bài
Lưu Trọng Lư của Nguyễn Xuân Nam trong Nhà thơ Việt Nam hiện đại
(1984); Mục từ Lưu Trọng Lư và Tiếng thu của Nguyễn Văn Long trong Từ
điển văn học tập 1 và 2 (1984), lời giới thiệu tuyển tập Lưu Trọng Lư của
Nguyễn Văn Long (1987). Công trình Thơ Lưu Trọng Lư những lời bình của
Mai Hương (2000) là một công trình tập hợp gần như đầy đủ các tiểu luận

8
nghiên cứu về thơ Lưu Trọng Lư trước và sau Cách mạng. Đăc biệt cuốn Lưu
Trong Lư tác gia và tác phẩm của NXB Giáo duc năm 2``6 coa thể coi là công
trình tập hợp đông dủ nhất nhung bài nghiên cuứ về cuộc đời và sự nghiệp
của Lưu Trong Lư.
Những bài viết về những thi phẩm đặc sắc trong tập Tiếng thu của Lưu
Trọng Lư: theo khảo sát sơ bộ tài liệu, người viết nhận thấy có trên chục bài
viết của các nhà nghiên cứu Hà Minh Đức, Đỗ Đức Hiểu, Văn Tâm, Kiều
Thanh Quế, Ngô Văn Phú, Trần Đình Sử, Chu Văn Sơn, Trần Đăng Khoa,
Nguyễn Thụy Kha... được in trong các tuyển tập phê bình về các gương mặt
của phong trào Thơ Mới, hoặc nằm tản mạn trên các báo, tạp chí. Sau được
tập hợp lại trong công trình Lưu Trong Lư tác gia tác phẩm. Trong các công
trình nghiên cứu này, các tác giả vẫn tiếp thu những đánh giá về Lưu Trọng
Lư của các nhà nghiên cứu trước Cách mạng như Lê Tràng Kiều, Hoài Thanh,
Vũ Ngọc Phan..., đồng thời khám phá thêm nhiều phương diện đặc sắc trong
sự nghiệp sáng tác thơ ca của Lưu Trọng Lư bao gồm cả giai đoạn trước và
sau Cách mạng, khẳng định những đóng góp của ông trên tất cả các lĩnh vực:
thi ca, tiểu thuyết và truyện ngắn, tiểu luận phê bình, sân khấu... Riêng trong
lĩnh vực thơ Lưu Trọng Lư trước cách mạng, có thể thấy những hướng tiếp
cận sau:
Thứ nhất, nghiên cứu về vai trò, vị trí của Lưu Trọng Lư trong phong
trào Thơ Mới như Lưu Trọng Lư, chiến tướng trong phong trào Thơ Mới của
Ngô Văn Phú, Cuộc bút chiến giữa Tản Đà và Lưu Trọng Lư về Thơ Mới và
thơ cũ của Nguyễn Tấn Long- Phan Canh, Lưu Trọng Lư, người có công đầu
trong phong trào Thơ Mới của Lê Thị Đức Hạnh. Các công trình nghiên cứu
này đều thống nhất khẳng định vai trò của Lưu Trọng Lư như một người mở
đường cho phong trào Thơ Mới cả trên mặt trận lí luận phê bình và thực tiễn
sáng tác: “Lưu Trọng Lư là người đầu tiên, có công đầu, lại lên tiếng tấn công

9
liên tục, không chỉ bằng lí luận có tình có lí, mà quan trọng hơn là bằng cả
một thực tiễn sáng tác phong phú, và từng bước đã có những thành công vững
chắc, có lúc rạng rỡ” (Lê Thị Đức Hạnh). “Lưu Trọng Lư một lần ra quân đã
chiến thắng. Ông thật sự đã đem được chất mới làm thay đổi vẻ mặt thơ ca
thời đó. Thơ ông chất lãng mạn, ngôn từ đã là một thế hệ thơ có học vấn, có
kiến thức mới, chịu ảnh hưởng của thơ ca Pháp, của những Larmactine,
Baudelaire, Musset, Vigny, Rimbaud và Verlaine. Nhưng dù ảnh hưởng, cốt
cách thơ ông không có sự lai căng, gượng gạo, khiên cưỡng mà nhuần nhị, kết
hợp được vẻ đẹp của thơ cũ và Thơ Mới” (Ngô Văn Phú).
Thứ hai, những nghiên cứu về phong cách nghệ thuật, thế giới nghệ
thuật thơ Lưu Trọng Lư như Lưu Trọng Lư- chiều rộng của tình, chiều cao
của mộng (Hoài Anh), Lưu Trọng Lư của Lê Đình Kỵ, Lưu Trọng Lư- Nhà
thơ với tình yêu và mộng đẹp của Hà Minh Đức, Lưu Trọng Lư của Nguyễn
Xuân Nam, Nhà thơ Lưu Trọng Lư của Nguyễn Văn Long, Nhà thơ của Tiếng
thu bất hủ của Ma Văn Kháng... Lê Đình Kị nhận định: “Thơ Lưu Trọng Lư ít
khi mang bóng dáng cuộc đời bên ngoài... Trong thơ Lưu Trọng Lư, hầu hết
đều diễn ra bên trong” [75; 129]. Hà Minh Đức cho rằng: “Nói đến Lưu
Trọng Lư cũng dễ nhận thấy Lưu Trọng Lư là nhà thơ của tình và mộng... Có
đời và có mộng, có hạnh phúc thực và tàn phai nuối tiếc, qui củ và phóng túng
giang hồ, tỉnh táo và đam mê đến như thác loạn, tất cả dựa trên tình cảm chân
thành của con tim rung động hết nhịp yêu thương” [75; 171]. Vũ Quần
Phương nhận định: “Thi pháp Lưu Trọng Lư là một thi pháp khá độc đáo.
Ông đi riêng một lối trong cả nền thơ: luôn luôn hướng vào nội tâm, lơ đãng
với ngoại giới. Ông bất lợi trong việc phản ánh hiện thực. Nhưng khi hiện
thực đã ngấm vào ông, thành tâm trạng ông thì ông lại tạo được chất thơ đích
thực có sức sống với thời gian” [75; 352]. Bài viết Nhà thơ Lưu Trọng Lư của
tác giả Nguyễn Văn Long là một bài nghiên cứu khá toàn diện và sâu sắc về

10
sự nghiệp thơ Lưu Trọng Lư. Trong bài viết này, nhà nghiên cứu đã có những
nhận định xác đáng và phân tích sâu sắc về những đặc điểm chính trong thế
giới nghệ thuật của Lưu Trọng Lư: thế giới thơ của Tiếng thu là thế giới của
tình và mộng, âm thanh, nhạc điệu là sức mạnh đặc biệt của thơ Lưu Trọng
Lư, một trong những nguyên nhân tạo nên thành công của thơ Lưu Trọng Lư
là sự gắn bó với truyền thống. Có thể nói, đây chính là những điểm tựa cho
chúng tôi khi triển khai luận án này.
Nói chung, khi nghiên cứu phong cách nghệ thuật, thế giới nghệ thuật
thơ Lưu Trọng Lư, các nhà nghiên cứu thống nhất cho rằng, cái tôi trữ tình
Lưu Trọng Lư là cái tôi giang hồ, thành thực, mơ mộng, đặc trưng nghệ thuật
thơ Lưu Trọng Lư là ở chất nhạc dồi dào, ở sự tiếp nối nghệ thuật truyền
thống. Những đặc điểm này đã làm nên sức hấp dẫn của thơ Lưu Trọng Lư.
Thứ ba là những công trình nghiên cứu tiếp cận thơ Lưu Trọng Lư từ
phương diện tiểu sử cuộc đời. Những công trình này đã tìm thấy sự nhất quán
giữa con người tiểu sử, cái tôi trữ tình và thế giới nghệ thuật Lưu Trọng Lư:
đó là chất giang hồ, sự thành thực của tâm hồn, lòng trắc ẩn đối với thân phận
người phụ nữ... Tất cả những đặc điểm này làm nên giá trị nhân văn sâu sắc
của sáng tác thơ Lưu Trọng Lư.
Thứ tư là những công trình nghiên cứu về các tác phẩm cụ thể của Lưu
Trọng Lư, trong đó, gây được sự chú ý nhiều nhất của các nhà nghiên cứu là
tập thơ Tiếng thu, đặc biệt là các bài thơ Tiếng thu, Nắng mới. Trong các công
trình này, các nhà nghiên cứu đã khẳng định giá trị của tập Tiếng thu trên rất
nhiều phương diện, cả nội dung và nghệ thuật. Về mặt nội dung, hầu hết các
nhà nghiên cứu đều thừa nhận giá trị nhân văn của tập thơ này, thể hiện trên
các phương diện như sự biểu hiện một cách thành thực những cảm xúc của
con người cá nhân, lòng trắc ẩn, yêu thương đối với thân phận người phụ nữ,
tình cảm gắn bó với quê hương đất nước, với truyền thống tốt đẹp của dân

11
tộc. Về mặt nghệ thuật, các tác giả cũng khám phá ra những giá trị nghệ thuật
độc đáo của tập Tiếng thu: nhạc điệu dồi dào, phong phú, chất dân tộc đậm
đà, nghệ thuật lãng mạn và tượng trưng... Những ý kiến xác đáng này sẽ là
những gợi mở cho chúng tôi trong quá trình nghiên cứu đề tài này.
Tình hình nghiên cứu trên cho thấy, thơ Lưu Trọng Lư ngay từ những
ngày đầu tiên trình làng Thơ Mới đã là một hiện tượng đáng chú ý và gây
được tiếng vang trong lòng công chúng, bạn đọc. Dư luận về thơ Lưu Trọng
Lư và đặc biệt là tập Tiếng thu nhìn chung là thống nhất. Các ý kiến đều tập
trung khẳng định nét nổi bật nhất của hồn thơ Lưu Trọng Lư là Tình và
Mộng, sức hấp nhất của thơ Lưu Trọng Lư là nhạc điệu. Tập thơ Tiếng thu,
cũng như những tiểu luận, tranh luận của ông trong buổi đầu Thơ Mới đã góp
một phần quan trọng trong việc đổi mới cũng như làm phong phú, giàu có hơn
cho diện mạo của phong trào thơ này. Lưu Trọng Lư thực sự là một gương
mặt tiêu biểu, một chiến sĩ tiên phong trong phong trào Thơ Mới.
Thực tế nghiên cứu cho thấy, nghiên cứu về Lưu Trọng Lư vẫn chỉ
dừng lại ở những bài viết vầ một phương diện nào đó trong sự nghiệp sáng tác
của Lưu Trọng Lư sau được tập hơp trong một công trình, một cuốn sách với
quy mô nhỏ. Những công trình nghiên cứu về Lưu Trọng Lư vẫn chưa thực sự
xứng đáng với tầm vóc và những đóng góp của ông trong lịch sử văn học dân
tộc. Cho đến nay, gần như vẫn chưa có một công trình nghiên cứu nào đánh
giá một cách toàn diện, hệ thống sự nghiệp sáng tác của Lưu Trọng Lư, đặc
biệt là sự nghiệp sáng tác của ông trước Cách mạng. Và ngay cả tập thơ Tiếng
thu, đỉnh cao trong sự nghiệp thơ ông và cũng là một trong những tập thơ tiêu
biểu của phong trào Thơ Mới, đến năm 2004 mới được đề cập đến trong luận
văn Thạc sỹ của Văn Thị Minh Tư- tác giả Luận án này, với rất nhiều vấn đề
còn bỏ ngỏ, cần được tiệp tục tìm hiểu và nghiên cứu. Chính khoảng trống ấy
đã thôi thúc chúng tôi tìm hiểu đề tài này.

12
3. Nhiệm vụ của đề tài
Khi thực hiện đề tài Lưu Trọng Lư trong phong trào Thơ Mới, chúng
tôi đặt ra nhiệm vụ tìm hiểu một cách toàn diện những đóng góp và vai trò
của ông đối với phong trào Thơ Mới trên các phương diện, cụ thể như sau;
Thứ nhất, tìm hiểu vai trò của Lưu Trọng Lư trong sự hình thành ý thức
nghệ thuật của phong trào Thơ Mới.
Thứ hai, tìm hiểu vị trí của Lưu Trong phong trào Thơ Mới trên
phương diện cái tôi trữ tình và hình tượng thế giới.
Thứ ba, tìm hiểu vị trí của Lưu Trọng Lư trong tiến trình cách tân nghệ
thuật Thơ Mới.
Khi triển khai đề tài này, chúng tôi không chỉ tìm hiểu sáng tác của Lưu
Trọng Lư như một thực thể nghệ thuật độc lập, khép kín mà đặt những sáng
tác đó trong toàn cảnh Thơ Mới và tiến trình vận động của phong trào thơ này
để chỉ ra vị trí và đóng góp của Lưu Trọng Lư.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Để triển khai đề tài này, chúng tôi tiến hành khảo sát những công trình
nghiên cứu về phong trào Thơ Mới cùng những gương mặt tiêu biểu của Thơ
Mới, những sáng tác thơ, tiểu luận của Lưu Trọng Lư thời kì trước Cách
mạng tháng Tám, bao gồm:
Những tiểu luận (tranh luận, phê bình, nghiên cứu...) của Lưu Trọng Lư
trong các cuộc tranh luận: Nghệ thuật vị nghệ thuật hay nghệ thuật vị nhân
sinh, Tranh luận Thơ Mới, thơ cũ, Tranh luận Truyện Kiều, cuốn Văn chương
và Hành động, tập tiểu luận viết chung của ba tác giả Hoài Thanh, Lê Tràng
Kiều và Lưu Trọng Lư.
Những sáng tác thơ giai đoạn 1932-1945 được tập hợp chủ yếu trong
tập Người sơn nhân (1933) và Tiếng thu (1939) của Lưu Trọng Lư.

13
- Ngoài ra, những sáng tác của Lưu Trọng Lư ở tất cả các thể loại: Tiểu
thuyết, hồi kí, kịch thơ, những sáng tác thơ Lưu Trọng Lư sau Cách mạng
cũng được xem như là những tư liệu cần thiết để tìm hiểu một cách bao quát
và sâu sắc hơn về cuộc đời, sự nghiệp sáng tác, tư tưởng, quan niệm nghệ
thuật cũng như thế giới nghệ thuật Lưu Trọng Lư.
5. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong luận án:
Phương pháp hệ thống: đặt sáng tác của Lưu Trọng Lư trong bức tranh
toàn cảnh của phong trào Thơ Mới, để xác định được vai trò, vị trí của ông
trên các phương diện như ý thức nghệ thuật, cái tôi trữ tình và hình tượng thế
giới, cách tân nghệ thuật...
- Phương pháp tiếp cận thi pháp học: nghiên cứu thế giới nghệ thuật
Lưu Trọng Lư như không gian nghệ thuật, thời gian nghệ thuật, cái tôi trữ
tình, quan niệm nghệ thuật của Lưu Trọng Lư, nhằm khẳng định thơ Lưu
Trọng Lư là một thế giới nghệ thuật riêng, độc đáo trong phong trào Thơ Mới.
- Phương pháp so sánh: đặt hiện tượng thơ Lưu Trọng Lư nói riêng và
phong trào Thơ Mới nói chung trong mối tương quan với chủ nghĩa lãng mạn,
chủ nghĩa tượng trưng Pháp, để khẳng định sự sáng tạo độc đáo cũng như tinh
thần thời đại, giá trị dân tộc trong sáng tác của Lưu Trọng Lư; so sánh Lưu
Trọng Lư với một số nhà thơ tiêu biểu khác của phong trào Thơ Mới để nhận
rõ nét riêng trong phong cách và thế giới nghệ thuật của nhà thơ.
Ngoài ra, luận án cũng sử dụng các thao tác như thống kê, phân loại,
phân tích, tổng hợp để làm sáng tỏ các luận điểm.
6. Đóng góp của luận án
Như trên đã nói, các công trình nghiên cứu về sự nghiệp Lưu Trọng Lư
tuy phong phú song còn tản mạn, thiếu hệ thống, và đặc biệt chưa có một

14
công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện về vị trí và những đóng góp của
Lưu Trọng Lư trong phong trào Thơ Mới. Luận án góp phần tổng kết một
cách toàn diện và hệ thống những đóng góp nghệ thuật của Lưu Trọng Lư
trong phong trào Thơ Mới trên cơ sở tiếp thu, kế thừa các nhận định, quan
điểm trong các công trình nghiên cứu của những người đi trước.
Mặt khác, luận án cũng mạnh dạn đề xuất một số quan điểm và kiến
giải riêng về thơ Lưu Trọng Lư: tiếp cận sáng tác của Lưu Trọng Lư từ góc độ
thi pháp học, từ đó tìm ra hạt nhân cốt lõi trong thơ Lưu Trọng Lư là cái tôi
trữ tình mơ màng mà nhạy cảm tinh tế, sầu mộng mà nặng lòng yêu dấu,
giang hồ mà thành thực nhân ái, thế giới nghệ thuật thơ Lưu Trọng Lư là thế
giới mộng với thời gian mộng, không gian mộng và người em sầu mộng. Đặt
thơ Lưu Trọng Lư trong tiến trình cách tân nghệ thuật Thơ Mới, luận án
khẳng định: Lưu Trọng Lư là cầu nối giữa truyền thống và hiện đại, và đặc
biệt, thơ Lưu Trọng Lư vừa là một hiện tượng tiêu biểu của thơ ca lãng mạn,
vừa mang màu sắc tượng trưng. Sự kết hợp giữa các yếu tố lãng mạn và tượng
trưng trong thơ Lưu Trọng Lư là một hệ quả đặc biệt của sự giao thoa văn hóa
giữa phương Đông và phương Tây, truyền thống và hiện đại trong văn học
Việt Nam đầu thế kỉ XX.
7. Cấu trúc của luận án
Luận án được triển khai thành 3 chương:
Chương 1: Lưu Trọng Lư với sự hình thành ý thức nghệ thuật của Thơ Mới
Chương 2: Lưu Trọng Lư trong phong trào Thơ Mới- nhìn từ góc độ cái
tôi trữ tình và hình tượng thế giới.
Chương 3: Thơ Lưu Trọng Lư trong tiến trình cách tân nghệ thuật Thơ Mới.

15

Chương 1
LƯU TRỌNG LƯ VỚI SỰ HÌNH THÀNH
Ý THỨC NGHỆ THUẬT CỦA THƠ MỚI

1.1. Phong trào Thơ Mới (1932-1945)- một cuộc cách tân về thi ca
1.1.1. Nhìn lại thơ Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến 1932
Từ thế kỉ XX trở về trước, văn học Việt Nam có thể nói nằm trong
phạm trù văn học trung đại. Giáo sư Trần Đình Sử, trong cuốn Mấy vấn đề thi
pháp văn học trung đại Việt Nam đã khái quát những đặc điểm chung của loại
hình văn học trung đại như sau. Thứ nhất, khái niệm văn học được hiểu theo
nghĩa rất rộng, trong đó các thể loại hành chức, thực hiện những chức năng
ngoài văn chương như cáo, chiếu, biểu, hịch là những thể loại đứng ở vị trí
trung tâm trong nền văn học. Các thể loại văn học có tính thẩm mĩ như thơ ca,
tiểu thuyết bị gạt ra khu vực ngoại vi. Thứ hai, văn học có tính chất song ngữ,
bên cạnh văn học bằng thứ tiếng vay mượn quan phương có văn học tiếng bản
địa, văn học viết và văn học dân gian truyền miệng. Thứ ba, văn học chịu sự
chi phối mạnh mẽ của tư tưởng kinh điển và tôn giáo. Thứ tư, văn học trung
đại chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn hóa dân gian. Đặc điểm thứ năm là tính
chất ước lệ nổi bật của hình thức biểu hiện [85; 59].
Ba mươi năm đầu của thế kỉ XX, văn học Việt Nam chuyển sang phạm
trù văn học cận đại. Cũng theo giáo sư Trần Đình Sử, thời cận đại ở Trung
Quốc, Nhật Bản, Việt Nam tính từ thời điểm xâm nhập của tư bản phương
Tây, cũng là thời kì suy tàn của chế độ phong kiến. Ở Việt Nam, thời kì cận
đại kết thúc vào năm 1930 với sự kiện Đảng cộng sản Việt Nam chính thức
thành lập và lãnh đạo phong trào Cách mạng giải phóng dân tộc. [85; 50].

16
Ở Việt Nam, cũng như hầu hết các nước phương Đông, thời cận đại là
kết quả của quá trình xâm lược thuộc địa của thực dân Pháp, là thời đại giao
thoa văn hóa phương Đông và phương Tây, đan xen giữa cái cũ và cái mới,
thời kì chuẩn bị cho sự hình thành của những trào lưu hiện đại. Công cuộc
khai thác thuộc địa của Pháp đã biến Việt Nam từ một nước phong kiến thành
một nước phong kiến thuộc địa. Chính sách đồng hóa của thực dân Pháp đã
làm xuất hiện trong xã hội Việt Nam một tầng lớp trí thức tinh hoa được đào
tạo trong nhà trường của Pháp, hiểu biết về ngôn ngữ và văn hóa Pháp, bên
cạnh tầng lớp trí thức Nho học. Các đô thị được hình thành bên cạnh mô hình
làng xã truyền thống, mặc dù có sức sống yếu ớt và có mối liên hệ mật thiết
với nông thôn. Chữ quốc ngữ được sử dụng phổ biến bên cạnh chữ Hán, chữ
Nôm, vốn là hai văn tự chính trong thời trung đại. Những tư tưởng văn hóa xã
hội phương Tây được truyền bá vào Việt Nam qua hoạt động học thuật của
giới trí thức tinh hoa, tạo nên những biến chuyển mạnh mẽ về mặt tư tưởng
trong đời sống xã hội. Những phong trào duy tân và yêu nước liên tục nổ ra,
gây chấn động xã hội, làm lung lay thể chế và những quan hệ xã hội phong
kiến, đồng thời thổi vào đời sống những luồng gió mới.
Lĩnh vực văn học cũng có những biến chuyển mạnh mẽ. Lực lượng
sáng tác văn học lúc này cũng thay đổi: bên cạnh các nhà Nho vẫn sáng tác
bằng chữ Hán và chữ Nôm, theo những hình thức thể loại của văn học trung
đại như thơ Đường luật, từ khúc, cổ phong, còn có những nhà Nho “bỏ bút
lông đi cầm bút sắt”, và những trí thức Tây học được đào tạo trong môi
trường giáo dục của Pháp. Với những tác giả thuộc bộ phận văn học bất hợp
pháp, mục đích sáng tác văn học là tuyên truyền những tư tưởng duy tân và cổ
vũ tinh thần đấu tranh giải phóng dân tộc (thơ văn Phan Bội Châu, Đông Kinh
nghĩa thục). Với những tác giả thuộc bộ phận văn học hợp pháp, viết là một
nghề, một phương cách để mưu sinh (Tản Đà). Đối tượng tiếp nhận văn học

17
lúc này không chỉ bó hẹp trong những người tri âm tri kỉ. Sự hình thành và
phát triển của báo chí và kĩ nghệ in ấn, sự phổ biến chữ quốc ngữ tạo nên một
lực lượng người đọc đông đảo, mà phần lớn là công chúng tiếp nhận ở các đô
thị. Nhu cầu, thị hiếu tiếp nhận của loại độc giả này là động lực dẫn đến sự
thay đổi của sáng tác văn học. Và đặc biệt, việc dịch thuật những tác phẩm
triết học, văn học thế giới đã chuẩn bị một nền tảng tư tưởng tri thức và trang
bị cho tầng lớp trí thức một nhãn quan mới về thế giới và con người. Tất cả
những yếu tố này đã tạo nên tính chất nổi bật của văn học thời kì này: tính
chất giao thời, sự đan xen và đấu tranh giữa cái cũ và cái mới, giữa Đông và
Tây, khiến cho thời kì này trở thành một bước đệm, một sự chuẩn bị cho sự ra
đời của văn học hiện đại.
Riêng trong lĩnh vực thơ ca, nhìn chung có mấy dòng chủ đạo như sau.
Thứ nhất là dòng văn học yêu nước và cách mạng được lưu hành bí mật
hoặc nửa công khai của Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng, nhóm Đông
kinh nghĩa thục... Tác giả của dòng thơ này là những chí sĩ Nho học yêu nước,
được tiếp thu những tư tưởng mới mẻ từ nước ngoài như tư tưởng Duy tân từ
Nhật Bản và Trung Quốc, và sử dụng thơ như một vũ khí để tuyên truyền, cổ
động tinh thần yêu nước và đấu tranh giải phóng dân tộc. Về mặt nội dung,
những tác phẩm thuộc dòng thơ này chan chứa lòng nhiệt thành cách mạng, là
lời thúc giục, hiệu triệu đấu tranh. Về mặt hình thức, hầu hết các bài thơ đã
tìm cách vượt thoát khỏi khuôn khổ gò bó và chật hẹp của thể thơ Đường luật,
tìm đến những thể thơ cổ truyền của dân tộc như lục bát, song thất lục bát, hát
nói... hoặc những thể thơ tương đối tự do phóng khoáng trong hệ thống thể
loại văn học trung đại như ca trù, câu đối, phú... Về mặt ngôn ngữ, các tác giả
đã cố gắng sử dụng một thứ ngôn ngữ trong sáng, giản dị, dễ hiểu để phù hợp
với mục đích tuyên truyền cách mạng. Tuy nhiên, những tác phẩm thuộc dòng

18
thơ này nhìn chung vẫn chưa thực sự có những đột phá và những thành tựu
kết tinh về mặt nghệ thuật.
Thứ hai là dòng thơ công khai được đăng tải trên Nam phong tạp chí,
Văn học tạp chí, Phụ nữ tân văn trong những năm 1920, 1930. Đại đa số các
bài thơ đều xoay quanh những đề tài truyền thống: hỏi xuân, vấn nguyệt, nhớ
bạn, cảm hoài..., sử dụng thể loại truyền thống là thể thơ Đường luật và một
hệ thống ngôn ngữ ước lệ, công thức, mòn sáo: phong trần, gương nga, cung
cầm, kiếp phù sinh... Tất cả những yếu tố này trở thành những sợi dây nặng
nề trói buộc cảm xúc, khiến thơ trở nên trống rỗng và giả dối, không biểu hiện
được những thay đổi đang diễn ra trong đời sống tinh thần của con người thời
đại. Đặc biệt, khi báo chí phát triển, số lượng tác phẩm xuất hiện càng nhiều,
người tự nhận là nhà thơ càng nhiều, thì những bài thơ dở lại càng nhiều hơn,
tạo nên một không khí nhạt nhẽo, thậm chí là bức bối và tù túng trong đời
sống văn học.
Trong bối cảnh suy thoái của văn hóa Hán, có một dòng thơ của những
tác giả tuy xuất thân Nho học, tuy đã thất thế nhưng vẫn thực sự gây được
một tiếng vang và tạo lập được một chỗ đứng nhất định trong văn đàn cũng
như trong xã hội: đó là sáng tác của hai nhà thơ Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu và
Á Nam Trần Tuấn Khải. Hai nhà thơ này, và đặc biệt là Tản Đà, có thể coi là
những thi sĩ Hán học cuối cùng của nền thơ Việt Nam. Tuy nhiên, sáng tác
của họ đã nắm bắt và biểu hiện được “một cái gì đó khác” trong đời sống tinh
thần của xã hội. Tứ thơ phóng túng, những cảm xúc chân thành và mới mẻ
của Tản Đà phần nào đã bung phá khỏi những khuôn sáo của thơ ca trung đại.
Những sầu, mộng, say của Tản Đà tuy vẫn là những khái niệm quen thuộc
trong thơ ca truyền thống, nhưng rõ ràng nó đã lung linh một tinh thần khác,
một sức sống khác. Cảm xúc trong thơ Tản Đà đã không còn là những cảm
xúc mòn sáo, trở thành những công thức ước lệ trong thơ cổ, mà đã có một

19
chút gì đó mơ màng, mông lung, khó nắm bắt, không gọi được thành tên,
giống như cảm xúc của các nhà Thơ Mới sau này. Cách diễn đạt của Tản Đà
đã thoát ra khỏi lối mòn của thơ trung đại, có những câu thơ thực sự giản dị
nhưng cũng hết sức độc đáo: “Ối trời ơi, ối đất ơi, cái áo sao mà rách tả tơi”.
Và đặc biệt là những bài phong dao của Tản Đà và Trần Tuấn Khải đã đi vào
lòng người đến mức nhiều người lầm tưởng là ca dao, là những tiếng hát cất
lên ở nơi thôn dã:
“Anh đi anh nhớ quê nhà
Nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương”

“Ai làm cho khói lên giời
Cho mưa xuống đất cho người biệt li
Ai làm Nam Bắc phân kì
Cho hai hàng lệ đầm đìa tấm thương”.
Cách trở về với văn học dân gian của hai nhà thơ này có lẽ đã gợi ý và
khơi nguồn cho một khuynh hướng thơ dân gian trong Thơ Mới sau này, với
tên tuổi Anh Thơ. Bàng Bá Lân và đăc sắc hơn cả là Nguyễn Bính.
Tản Đà là một nhà thơ cũ thuộc thế hệ nhà thơ xuất thân Nho học cuối
cùng của nền văn học Việt Nam. Nhưng ngay trong chính nhà thơ này đã tồn
tại một khát vọng mãnh liệt muốn thoát ra khỏi những khuôn thước cũ, muốn
biểu hiện một tinh thần mới, một cảm xúc mới. Tính chất phức tạp của thế
giới quan, những nỗ lực tìm tòi cái mới của Tản Đà đã khiến cho ông trở
thành một chiếc cầu nối hai thế kỉ, một bậc tiền bối đáng nể trọng của thế hệ
Thơ Mới, người gieo hạt, ươm mầm cho một cuộc cách mạng chưa từng có
trong nền văn học nước nhà. Đồng thời, hiện tượng Tản Đà “vứt bút lông đi

20
cầm bút sắt”, “lại có thơ rao bán phố phường” cũng cho thấy sự suy thoái tất
yếu của nền văn học trung đại và sự thất thế tất yếu của trí thức Nho học trong
một thời đại mới.
Tình hình trên cho thấy sự bế tắc tuyệt vọng và những nỗ lực vượt thoát
ra khỏi phạm trù văn học trung đại của văn học thời kì này. Nguyên nhân sâu
xa của tình trạng này có lẽ là một loạt những sự kiện đánh dấu sự cáo chung
của nền khoa cử phong kiến, và lật đổ địa vị của tầng lớp trí thức phong kiến.
Thứ nhất là sự ra đời của nghị định ngày 21 tháng 12 năm 1917 của Toàn
quyền Đông Dương về việc cho ban hành Qui chế chung về ngành giáo dục ở
Đông Dương, nhằm mục đích lấy Tây học thay cho Nho học. Hoạt động dạy
học chữ Hán bị kiểm soát chặt chẽ. Những môn học mới được biên soạn và
giảng dạy trong các nhà trường của Pháp, trong đó có nhiều môn học về lịch
sử văn hóa Pháp. Chữ quốc ngữ trở thành văn tự chính trong các kì thi, bên
cạnh chữ Pháp. Sự kiện quan trọng thứ hai là khoa thi cuối cùng năm 1919
(ngày 01/3 năm Kỉ Mùi, niên hiệu Khải Định thứ tư). Sự kiện này đã đánh
dấu sự cáo chung của nền khoa cử phong kiến. Theo đó, lối thơ Đường luật
cùng hệ thống tri thức khoa cử vốn là con đường tiến thân duy nhất của Nho
sĩ cũng bị gạt bỏ. Sự kiện thứ ba là những cải cách của nội các Bảo Đại, trong
đó nội các cũ gồm các quan già xuất thân Nho học bị bãi nhiệm, thay vào đó
là một nội các trẻ gồm những vị Thượng thư như Phạm Quỳnh, Ngô Đình
Diệm, Thái Văn Toản, Bùi Bằng Đoàn, là những trí thức Tây học. Tất cả
những sự kiện này đã khiến nền Hán học và thể thơ Đường luật trở nên thất thế,
những trí thức Nho học bị gạt ra ngoài lề của xã hội. Một thứ văn tự khác, một
nền văn hóa khác, một tầng lớp trí thức khác đang dần dần thay thế. Cục diện
vũ đài chính trị và sân chơi văn học đã thực sự thay đổi, trong đó có sự thắng
thế của cái mới, của phương Tây, của những con người trẻ tuổi. Tình cảnh này
sẽ để lại một dư vị ngậm ngùi, chua xót trong sáng tác văn học của những thế