Lý thuyết chung về lạm phát
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU...................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: LÝ THUYẾT CHUNG VỀ LẠM PHÁT VÀ MỐI QUAN
HỆ VỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ .................................................... 2
1.
Lý thuyết chung về lạm phát ............................................................... 2
1.1.
Khái niệm lạm phát................................................................................. 2
1.2.
Phân loại lạm phát. ................................................................................. 2
1.4.
Ảnh hưởng của lạm phát......................................................................... 8
2.
Mối quan hệ giữa tăng trưởng và lạm phát ..................................... 10
2.1.
Tác động của lạm phát đến tăng trưởng kinh tế ................................... 10
2.2.
Sự đánh đổi giữa mục tiêu kiềm chế lạm phát và tốc độ tăng trưởng
kinh tế ................................................................................................... 11
2.3.
Mối quan hệ phi tuyến tính giữa tăng trưởng và lạm phát ................... 12
CHƯƠNG 2: LẠM PHÁT VÀ MỐI QUAN HỆ VỚI TĂNG TRƯỞNG
KINH TẾ Ở VIỆT NAM ...................................................................... 15
1.
Thực trạng lạm phát ở Việt Nam ...................................................... 15
1.1.
Tình hình lạm phát ở Việt Nam thời gian qua. ..................................... 15
1.2.
Nguyên nhân dẫn đến lạm phát ở Việt Nam trong thời gian qua. ....... 16
1.3.
Một số biện pháp Chính phủ đã thực hiện. ........................................... 17
2.
Mối quan hệ giữa tăng trưởng và lạm phát trong nền kinh tế
Việt Nam .............................................................................................. 20
3.
Đề xuất giải pháp trong thời gian tới. ............................................... 23
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 27
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................. 29
DANH MỤC BẢNG, BIỂU
BẢNG
Bảng 1:
Bảng thống kê tỷ lệ lạm phát và tốc độ tăng trưởng GDP 1986 – 2010..... 20
Bảng 2:
Hệ số tương quan tốc độ tăng trưởng GDP và tỷ lệ lạm phát
1986-2010 .......................................................................................... 21
BIỂU
Biểu đồ 1: Đồ thị biểu diễn tỷ lệ lạm phát và tốc độ tăng trưởng GDP
1986-2010 .......................................................................................... 20
LỜI NÓI ĐẦU
Tăng trưởng và lạm phát luôn là những chỉ tiêu vô cùng quan trọng trong
các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô và giành được sự quan tâm hàng đầu của các nhà quản
lý, nhà hoạch định cũng như công chúng. Dự bạn là ai, một sinh viên, một người
nông dân, một nhân viên văn phòng hay một nhà quản lý cao cấp thì hàng ngày,
hàng giờ tăng trưởng và lạm phát đều đang ảnh hưởng đến đời sống của bạn.
Tăng trưởng có thể giúp bạn trở nên giàu có thì lạm phát chính là “kẻ móc túi”
vô hình luôn thường trực bên bạn.
Hiện nay, tình hình kinh tế thế giới đang diễn biến phức tạp, lạm phát
tăng, giá dầu thô, nguyên vật liệu cơ bản đầu vào của sản xuất, giá lương thực,
thực phẩm trên thị trường thế giới tiếp tục xu hướng tăng cao. Trong nước, thiên
tai, thời tiết tác động bất lợi đến sản xuất và đời sống; một số mặt hàng là đầu
vào quan trọng của sản xuất như điện, xăng dầu vẫn chưa thực hiện đầy đủ theo
cơ chế giảm giá thị trường buộc phải điều chỉnh tăng. Mặt khác, để ngăn chặn
suy giảm, duy trì tăng trưởng kinh tế , chúng ta phải nới lỏng chính sách tiền tệ,
tài khóa trong thời gian qua. Tình hình trên đây đã làm giá cả tăng cao, tăng
nguy cơ mất ổn định kinh tế vĩ mô của nước ta. Vì vậy, vấn đề cấp bách đặt ra
hiện nay của nước ta, đó là tập trung kiềm chế lạm phát trong mối quan hệ với
tăng trưởng, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội.
Tuy nhiên, làm thế nào để duy trì được một nhịp độ tăng trưởng cao
nhưng đều đặn, một mức lạm phát có thể chấp nhận được vì mục tiêu cuối cùng
là ổn định kinh tế vĩ mô? Câu hỏi đó không dễ dàng để trả lời.
Do vậy, trong bài viết này em xin đề cập đến lạm phát và đặt nó trong mối
quan hệ với tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam hiện nay.
1
CHƯƠNG 1
LÝ THUYẾT CHUNG VỀ LẠM PHÁT VÀ MỐI QUAN HỆ VỚI
TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
1. Lý thuyết chung về lạm phát
1.1. Khái niệm lạm phát
Lạm phát được định nghĩa là sự gia tăng liên tục trong mức giá chung.
Điều này không nhất thiết có nghĩa giá cả của mọi hàng hóa và dịch vụ đồng
thời phải tăng lên theo cùng một tỷ lệ, mà chỉ cần mức giá trung bình tăng
lên. Một nền kinh tế vẫn có thể trải quan lạm phát khi giá của một số hàng
hóa giảm ,nếu như giá cả của các hàng hóa và dịch vụ khác tăng đủ mạnh.
Lạm phát cũng có thể được định nghĩa là sự suy giảm sức mua trong
nước của đồng nội tệ. Trong bối cảnh lạm phát, thì một đơn vị tiền tệ chỉ có
thể mua được ngày càng ít hàng hóa và dịch vụ hơn. Hay nói cách khác, khi
có lạm phát, chúng ta sẽ phải chi ngày càng nhiều đồng nội tệ hơn để mua
một lượng hàng hóa và dịch vụ cố định.
Nếu thu nhập bằng tiền không theo kịp tốc độ trượt giá, thì thu nhập
thực tế, tức là sức mua của thu nhập bằng tiền sẽ giảm. Một điều quan trọng
mà chúng ta cần nhận thức là lạm phát không chỉ đơn thuần là sự gia tăng của
mức giá mà đó phải là sự gia tăng liên tục trong mức giá. Nếu như chỉ có một
cú sốc xuất hiện làm tăng mức giá, thì dường như giá cả chỉ đột ngột bùng
lên rồi lại giảm trở lại mức ban đầu ngay sau đó. Hiện tượng tăng giá tạm
thời như vậy không được gọi là lạm phát.
1.2. Phân loại lạm phát.
1.2.1. Xét về mặt định lượng:
Dựa trên độ lớn nhỏ của tỷ lệ phần trăm lạm phát tính theo năm người ta
chia lạm phát ra thành:
2
* Lạm phát vừa phải: loại lạm phát này xảy ra khi giá cả tăng chậm và
tỷ lệ lạm phát dười 10% một năm. Đây là mức lạm phát mà nền kinh tế chấp
nhận được, với mức lạm phát này, những tác động kém hiệu quả của nó là
không đáng kể.
* Lạm phát phi mã: là tỷ lệ lạm phát khi tỷ lệ tăng giá cả đã bắt đầu
tăng đến hai chữ số mỗi năm. Ở mức lạm phát hai chữ số thấp (11, 12, 13
%/năm), nói chung những tác động tiêu cực của nó là không đáng kể, nền
kinh tế có thể vẫn chấp nhận được. Nhưng khi tỷ lệ tăng giá ở mức hai chữ số
cao, lạm phát sẽ trở thành kẻ thù của sản xuất và thu nhập vì những tác động
tiêu cực của nó là không nhỏ. Lạm phát hai chữ số trở thành mối đe dọa đến
sự ổn định của nền kinh tế.
* Siêu lạm phát: tùy theo quan niệm của các nhà kinh tế, ngoài các loại
lạm phát trên đây còn có lạm phát ba chữ số. Nhiều người coi các loại lạm
phát này là siêu lạm phát vì nó có tỉ lệ lạm phát rất cao và tốc độ tăng nhanh.
Với siêu lạm phát, những tác động tiêu cực của nó đến đời sống và đến nền
kinh tế trở nên nghiêm trọng: kinh tế suy sụp một cách nhanh chóng, thu
nhập thực tế của người lao động giảm mạnh.
1.2.2. Xét về mặt định tính:
Người ta chia lạm phát ra thành:
* Lạm phát cân bằng và lạm phát không cân bằng:
Lạm phát cân bằng: khi nó tăng tương ứng với thu nhập, do vậy lạm
phát không ảnh hưởng đến đời sống của người lao động.
Lạm phát không cân bằng: Tỉ lệ lạm phát tăng không tương ứng với
thu nhập. Trên thực tế, lạm phát không cân bằng thường hay xảy ra nhất.
* Lạm phát dự đoán trước và lạm phát bất thường:
3
Lạm phát dự đoán trước: lạm phát xảy ra trong một thời gian tương đối
dài với tỉ lệ lạm phát hàng năm khá đều đặn, ổn định. Do vậy, người ta có thể
dự đoán trước được tỉ lệ lạm phát cho những năm tiếp sau.
Lạm phát bất thường: lạm phát xảy ra có tính đột biến mà trước đó
chưa hề xuất hiện. Do vậy, tâm lý, cuộc sống và thói quen của mọi người đều
chưa thích nghi được. Lạm phát bất thường gây ra những cú sốc cho nền kinh
tế và sự thiếu tin tưởng của người dân vào chính quyền đương đại.
4
1.3. Nguyên nhân của lạm phát
* Lạm phát do cầu kéo:
Khi cầu của người tiêu dùng, doanh nghiệp và chính phủ về hàng hóa
và dịch vụ vượt quá năng lực tạo ra của nền kinh tế. Thực ra đây cũng là một
cách định nghĩa về lạm phát dựa vào nguyên nhân gây ra lạm phát. Tuy nhiên
để cho định nghĩa này có sức thuyết phục thì cần phải giải thích tại sao chi
tiêu lại lớn hơn giá trị sản xuất.
Lạm phát có thể hình thành khi xuất hiện sự gia tăng đột biến trong
nhu cầu về tiêu dùng và đầu tư. Trong nhiều trường hợp, lạm phát thường bắt
nguồn từ sự gia tăng quá mức trong các chương trình chi tiêu của chính phủ.
Khi chính phủ quyết định tăng chi tiêu cho tiêu dùng và đầu tư nhiều hơn vào
cơ sở hạ tầng, thì mức giá sẽ tăng. Ngược lại, khi chính phủ quyết định cắt
giảm các chương trình chi tiêu công cộng, hoặc các công trình đầu tư lớn đã
kết thúc, thì mức giá sẽ giảm.
Lạm phát cũng có nguyên nhân từ nhu cầu xuất khẩu. Tuy nhiên, hàng
xuất khẩu tác động tới lạm phát trong nước theo một cách khác: khi nhu cầu
xuất khẩu tăng, lượng còn lại để cung ứng trong nước giảm và do vậy làm
tăng mức giá trong nước. Ngoài ra, nhu cầu xuất khẩu và luồng vốn chảy vào
cũng có thể gây ra lạm phát, đặc biệt là trong chế độ tỷ giá hối đoái cố định,
vì điều này có thể là nguyên nhân dẫn tới sự tăng lượng tiền cung ứng.
* Lạm phát do chi phí đẩy:
Lạm phát cũng có thể xảy ra khi một số loại chi phí đồng loạt tăng lên
trong toàn bộ nền kinh tế. Ba loại chi phí có thể gây ra lạm phát là: tiền
lương, thuế gián thu và giá nguyên liệu nhập khẩu. Khi công đoàn thành công
trong việc đẩy tiền lương lên cao, các doanh nghiệp sẽ tìm cách tăng giá và
kết quả là lạm phát xuất hiện. Việc chính phủ tăng những loại thuế tác động
đồng thời đến tất cả các nhà sản xuất cũng có thể gây ra lạm phát. Tương tự
5
như vậy, đối với các nền kinh tế nhập khẩu nhiều loại nguyên liệu, cấu kiện
cần thiết mà nền công nghiệp trong nước chưa sản xuất được, thì sự thay đổi
giá cả của chúng sẽ có ảnh hưởng quan trọng đến tình hình lạm phát trong
nước. Những yếu tố trên có thể tác động riêng rẽ, nhưng cũng có thể gây ra
tác động tổng hợp, làm cho lạm phát ra tăng với tốc độ cao và rất cao.
* Lạm phát do thâm hụt ngân sách:
Đối với nước đang phát triển, do thị trường vốn bị hạn chế nên việc
phát hành trái phiếu Chính phủ để bù đắp cho thâm hụt Ngân sách nhà nước
là rất khó thực hiện. Lúc này, con đường duy nhất đối với họ là “sử dụng máy
in tiền”. Việc phát hành tiền dẫn đến lượng tiền cung ứng tăng, do đó lạm
phát tăng.
Ở các nước phát triển, thị trường vốn phát triển, vì vậy, một khối lượng
lớn trái phiếu Chính phủ có thể được bán ra và nhu cầu trang trải cho thâm
hụt Ngân sách nhà nước được thực hiện từ nguồn vốn vay của Chính phủ.
Tuy nhiên, nếu Chính phủ cứ tiếp tục phát hành trái phiếu ra thị trường, cầu
về vốn vay sẽ tăng, do đó, lãi suất sẽ tăng cao. Để hạn chế việc tăng lãi suất
thị trường, Ngân hàng trung ương sẽ phải mua vào các trái phiếu đó, điều này
lại làm cho cung tiền tăng và lạm phát gia tăng.
Do vậy, trong mọi trường hợp, tình trạng thâm hụt ngân sách nhà nước
cao, kéo dài sẽ là nguồn gốc tăng cung ứng tiền tệ và gây ra lạm phát.
* Lạm phát do cơ cấu:
Ngành kinh doanh có hiệu quả tăng tiền công danh nghĩa cho người
lao động. Ngành kinh doanh không hiệu quả, vì thế, không thể không tăng
tiền công cho người lao động trong ngành mình. Nhưng để đảm bảo mức lợi
nhuận, ngành kinh doanh kém hiệu quả sẽ tăng giá thành sản phẩm. Lạm phát
nảy sinh vì điều đó.
6
* Lạm phát do tỷ giá hối đoái:
Khi tỷ giá tăng, đồng nội tệ mất giá, trước hết nó tác động lên tâm lý
của những người sản xuất trong nước, muốn kéo giá hàng lên theo mức tăng
của tỷ giá hối đoái. Tiếp theo, giá nguyên liệu, hàng hóa nhập khẩu cũng tăng
cao, đẩy chi phí về phía nguyên liệu tăng lên, lại quay trở về lạm phát chi phí
đẩy như đã phân tích ở trên. Việc tăng giá cả của nguyên liệu và hàng hóa
nhập khẩu thường gây ra phản ứng dây chuyền, làm tăng giá cả ở rất nhiều
các hàng hóa khác, đặc biệt là hàng hóa của các ngành có sử dụng nguyên
liệu nhập khẩu và những ngành có mối liên hệ chặt chẽ với nhau( nguyên liệu
của ngành này là sản phẩm của ngành khác…).
* Lạm phát do kỳ vọng:
Lạm phát có được động lực khi công nhân, người tiêu dùng và doanh
nghiệp dự kiến nó sẽ tiếp diễn. Các kì vọng về lạm phát kích thích công nhân
đòi hỏi tăng luơng cao hơn. Các nhà quản lý kinh doanh khi dự đoán lạm phát
tiếp sẽ đáp ứng yêu cầu của công nhân, bằng cách đẩy việc tăng chi phí người
tiêu dung, họ mua vật liệu và thiết bị ngay bây giờ chứ không chờ đến tương
lai và trả lãi xuất cao hơn vì họ dự kiến sẽ tăng giá bán hàng hoá của họ.
Những người cho vay đòi hỏi lãi xuất cao hơn vì họ dự đoán tiền bị mất giá
khi thanh toán khoản cho vay sau khi giá cả đã tăng. Người tiêu dùng mua
hàng hóa lâu bền đề phòng với giá tương lai cao hơn. Vì thế, một khi đã xảy
ra, lạm phát sẽ tiếp diễn vì mọi người dự đoán nó sẽ tiếp tục.
* Lạm phát do chính trị:
Khi một quốc gia có tình hình chính trị bất ổn, các đảng phái chính trị
mâu thuẫn về lợi ích kinh tế. Mỗi đảng phái đều có những biện pháp để tăng
cường tiềm lực tài chính của mình, điều này có thể dẫn đến việc làm cho giá
cả các mặt hàng tăng lên, thị trường bất ổn và lạm phát sẽ xảy ra.
7
1.4. Ảnh hưởng của lạm phát
1.4.1. Tác dụng của lạm phát:
Lạm phát không phải lúc nào cũng xấu cả. Một số nhà kinh tế lập luận rằng
lạm phát có thể thúc đẩy phát triển kinh tế theo những cách sau:
* Việc tài trợ lạm phát cho phép chính phủ quản lý phần tiền lớn hơn
bằng cách thu hút các nguồn lực từ những lĩnh vực kém ưu tiên.
* Chính phủ có thể sử dụng tín dụng dành cho lạm phát để phân phối
lại thu nhập, từ người ăn lương để tiết kiệm ít đến nhà tư bản có tỷ lệ hình
thành vốn sản xuất cao.
* Các nhà kinh doanh thường được lợi từ lạm phát vì giá sản phẩm có
xu hướng tăng nhanh hơn giá nguyên liệu đầu vào.
* Lạm phát làm giảm lãi xuất thực tế và gánh nặng nợ nần thực tế đối
với việc mở rộng kinh doanh.
* Áp lực lạm phát đẩy nền kinh tế theo hướng đủ việc làm và sử dụng
đầy đủ hơn lao động và các nguồn lực khác.
1.4.2.Tác hại của lạm phát:
* Việc phân phối lại của chính phủ từ những người tiêu dùng nhiều đến
người tiết kiệm nhiều thông qua tài trợ lạm phát chỉ có thể có hiệu quả trong
những giai đoạn đầu của lạm phát. Khi người ta dự đoán lạm phát tiếp diễn,
họ tìm cách bảo vệ mình. Đòi hỏi về tiền lương, những điều chỉnh tự động về
chi phí sinh hoạt từ đó làm sai lệch việc phân bổ nguồn lực, thường dẫn đến
sự thiếu hụt, chợ đen và tham nhũng.
* Lạm phát áp đặt một mức thuế lên những người nắm giữ tiền. Chính
phủ hay các nhà kinh doanh có lợi nhờ tài trợ lạm phát thu các nguồn lực từ
thuế lạm phát. Để phục hồi giá trị thực tế của số tiền của mình, người ta phải
tích lũy tiền bằng bổ xung theo tỷ lệ tương đương với lạm phát. Người ta tìm
cách tránh thuế bằng cách giữ hàng thay cho tiền.
8
* Lạm phát làm biến dạng hành vi kinh doanh, đặc biệt là hành vi đầu
tư khi mà mọi tính toán hợp lý về lợi nhuận bị đổ vỡ. Các chủ doanh nghiệp
không đầu tư mạo hiểm vào những ngành cơ sở có thời gian thu hồi vốn dài
mà thường đầu tư vào tài sản mang lại lãi vốn nhằm chống lại lạm phát. Các
nhà kinh doanh theo tiêu phí nhiều nỗ lực vào việc dự báo và đầu cơ theo tỷ
lệ lạm phát hay ngăn ngừa những sự bất ổn kèm theo.
* Lạm phát, đặc biệt khi nó không liên tục và không đều, làm suy yếu
việc hình thành thị trường vốn và tín dụng. Sự không chắc chắn về tăng giá
trong tương lai có thể ảnh hưởng xấu đến sự phát triển của các ngân hàng tiết
kiệm, cộng đồng những người để dành, thị trường trái phiếu, các quỹ an sinh
xã hội, hưu trí, bảo hiểm và các công cụ nợ của chính phủ.
* Các công cụ tiền tệ và tài chính ở các nước kém phát triển thường
quá yếu nên khó có thể làm giảm lạm phát mà không thiệt hại về thu nhập
thực tế, việc làm và các trương trình phúc lợi xã hội.
* Việc phân phối thu nhập thường kém đồng đều trong các thời kì lạm
phát. Lạm phát phân phối lại thu nhập, ít nhất trong những thời kì đầu,
từ những công nhân có thu nhập thấp và những người có nguồn thu nhập
cố định tới các tầng lớp thu nhập cao. Việc phân phối lại này có thể
không tăng tiết kiệm, vì người giàu có thể mua hàng xa xỉ bằng phần thu
nhập tăng của họ.
* Lạm phát làm tăng gia hàng trong nước tương ứng với hàng nước
ngoài, làm giảm khả năng cạnh tranh quốc tế của hàng trong nước và làm
giảm sút cán cân ngoại thương. Lạm phát khuyến khích nhận các dòng vốn
nước ngoài vào vì giá trị thực tế của vốn đầu tư và thu nhập chuyển về nước
trong tương lai bị xói mòn. Sự thâm hụt quốc tế lớn, thường do lạm phát
nhanh gây ra, có thể làm tăng gánh nặng nợ nần và hạn chế nhập khẩu những
mặt hàng cần thiết.
9
2. Mối quan hệ giữa tăng trưởng và lạm phát
2.1. Tác động của lạm phát đến tăng trưởng kinh tế
Trong quan niệm của nhiều người, lạm phát có ảnh hưởng tiêu cực đến
tăng trưởng kinh tế vì làm giảm năng suất lao động. Lạm phát bóp méo mức
độ khan hiếm tương đối (phản ánh qua giá cả) của các nguồn lực sản xuất và
do đó bóp méo các quyết định đầu tư và sự phân bổ các nguồn lực khan hiếm
này. Lạm phát còn làm giảm mức khấu trừ thực tế cho phép trong thuế doanh
nghiệp đối với khấu hao tài sản cố định và làm tăng giá thuê tư bản, do đó
làm giảm tích lũy vốn, dẫn đến giảm năng suất. Hàm lượng thông tin liên
quan đến biến động giá cả giảm đi kể cả trong thời kỳ lạm phát ổn định. Như
vậy, các nhà đầu tư thường có xu hướng mắc lỗi trong quyết định của mình
và chọn những “gói” yếu tố sản xuất không phải là tối ưu, làm giảm hiệu quả
kinh tế và, do đó, giảm năng suất.
Tuy nhiên, không ít người lại lập luận rằng lạm phát ở một mức nhẹ lại
có tác dụng tích cực đến tăng trưởng kinh tế. Chẳng hạn, nhà kinh tế học nổi
tiếng Tobin cho rằng lạm phát làm cho nhà đầu tư tái phân bổ danh mục đầu
tư của mình từ tiền sang chứng khoán, làm giảm lãi suất thực tế và do đó làm
tăng đầu tư và nâng cao năng suất lao động. Ông lập luận thêm rằng “một
chút lạm phát giúp bôi trơn nền kinh tế” vì nó giúp thị trường lao động điều
chỉnh cho phù hợp. Một số khác cũng chỉ ra rằng nhu cầu tăng lên ổn định sẽ
gây ra lạm phát ở mức nhẹ, là cái mà thực ra lại làm tăng, chứ không phải
giảm, năng suất lao động và, do đó, tăng tốc độ tăng trưởng. Vì thế, động thái
nhằm đạt mức lạm phát bằng 0 chẳng qua là chính sách trả trước ngay bây
giờ cho nhiều thiệt hại hơn sau này.
Từ một khía cạnh khác, một số người cho rằng lạm phát có ảnh hưởng
tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế nếu xét đến mối quan hệ giữa tính bất trắc
của lạm phát trong tương lai với tăng trưởng sản lượng. Họ cho rằng tính bất
10
trắc của lạm phát càng cao thì tăng trưởng sản lượng càng thấp. Sở dĩ có điều
này bởi vì nhà sản xuất khai thác triệt để tính bất đối xứng về thông tin trên
thị trường – thông tin có được của người tiêu dùng bị hạn chế so với nhà sản
xuất – để tăng biên độ lợi nhuận, do đó làm tăng doanh thu kể cả cho những
nhà sản xuất không thật sự hiệu quả. Việc phân bổ các nguồn lực sản xuất tới
những nhà sản xuất không hiệu quả như vậy sẽ làm giảm tốc độ tăng trưởng.
Nhưng ngược lại với dòng lập luận này, một số nhà kinh tế chỉ ra rằng tính
bất trắc của lạm phát lại có tác động tích cực đến tăng trưởng, nhờ vào động
thái tăng tiết kiệm để phòng ngừa lạm phát. Họ cũng chỉ ra thêm rằng trên
thực tế, quan hệ nhân quả giữa hai biến số này là không nhất quán ở từng
trường hợp nghiên cứu quốc gia.
2.2. Sự đánh đổi giữa mục tiêu kiềm chế lạm phát và tốc độ tăng trưởng
kinh tế
Tăng trưởng và lạm phát là hai đỉnh có tầm quan trọng hàng đầu của tứ
giác mục tiêu thuộc mọi quốc gia (tăng trưởng cao, lạm phát thấp, thất nghiệp
ít, cán cân thanh toán có số dư). Nhưng đó là mục tiêu lý tưởng, rất khó có
nước nào đạt được cùng một lúc, nên cần có sự lựa chọn ưu tiên, tuỳ hoàn
cảnh của từng nước, trong từng giai đoạn, thậm chí trong từng thời gian ngắn.
Để có thể hạn chế tới mức thấp nhất những tác hại của lạm phát thì ta phải
chấp nhận đánh đổi. Trong những lĩnh vực phải chịu sự trả giá và đánh đổi,
thì trước hết và quan trọng nhất là phải chấp nhận tăng trưởng kinh tế bị
chậm lại so với mục tiêu đã đề ra. Tăng trưởng kinh tế chậm lại để tập trung
ưu tiên kiềm chế lạm phát. Một mặt, mục tiêu tăng trưởng kinh tế là vì con
người, mà con người lại vừa là mục tiêu vừa là động lực của tăng trưởng kinh
tế. Mặt khác, kiềm chế lạm phát là để ổn định kinh tế vĩ mô, tạo môi trường
sản suất kinh doanh tốt hơn, tạo điều kiện cho tăng trưởng kinh tế trung và
dài hạn.
11
Kiềm chế lạm phát thì phải thắt chặt tiền tệ. Nhưng đối với những lĩnh
vực sản xuất hàng hoá cho thị trường trong nước để tăng cung hàng hoá cũng
như sản xuất hàng xuất khẩu thì không những không được thắt chặt, mà còn
phải được bảo đảm đủ vốn, thậm chí còn được ưu tiên, vừa để bảo đảm cho
sự bền vững của tín dụng, vừa duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Vốn đầu tư là yếu tố vật chất trực tiếp quyết định tốc độ tăng trưởng
kinh tế. Khi kiềm chế lạm phát được ưu tiên thì phải cắt giảm đầu tư công (từ
ngân sách nhà nước), kiểm soát chặt chẽ đầu tư của các doanh nghiệp Nhà
nước. Muốn vậy, một mặt cần chuyển dịch cơ cấu đầu tư, mặt khác cần nâng
cao hiệu quả đầu tư.
Chuyển dịch cơ cấu đầu tư trong điều kiện hiện nay là chuyển dịch trên
các mặt: tăng nguồn vốn đầu tư của khu vực ngồi nhà nước, nguồn vốn đầu
tư nước ngoài để bù cho phần cắt giảm nguồn vốn đầu tư của khu vực nhà
nước; tập trung đầu tư cho những ngành, lĩnh vực tạo ra sản phẩm đang có
giá nóng hoặc trong nước có lợi thế sản xuất, nhưng đã phải nhập khẩu; đầu
tư cho thiết bị kỹ thuật công nghệ tiêu hao ít nguyên nhiên vật liệu.
Nâng cao hiệu quả đầu tư bằng việc tập trung cho những công trình
hoàn thành sớm đưa vào hoạt động, giảm thiểu chi phí và thời gian giải
phóng mặt bằng, giảm thiểu lãng phí, thất thoát...
2.3. Mối quan hệ phi tuyến tính giữa tăng trưởng và lạm phát
Tăng trưởng cao, lạm phát thấp, thất nghiệp ít, cán cân thanh toán có
số dư là một tứ giác đẹp, tứ giác lý tưởng của mọi quốc gia. Giữa các "đỉnh"
của tứ giác này có mối quan hệ khá chặt chẽ, đặc biệt là giữa tăng trưởng và
lạm phát. Tăng trưởng kinh tế cao thì lạm phát thấp; khi thiểu phát hoặc lạm
phát cao quá lại làm cho kinh tế tăng trưởng thấp.
Giữa tăng trưởng kinh tế và lạm phát thường có mối quan hệ nhất định.
Tuy nhiên mức độ gắn kết như thế nào vẫn là vấn đề tranh cãi. Một số nghiên
12
cứu theo lối kinh nghiệm cho thấy, lạm phát có thể tác động tiêu cực đến tăng
trưởng kinh tế khi nó vượt qua một ngưỡng nhất định. Mối quan hệ giữa tăng
trưởng kinh tế và lạm phát là phi tuyến tính.
Fischer (1993) là người đầu tiên nhiên cứu vấn đề này với kết luận, khi
lạm phát tăng ở mức độ thấp mối quan hệ này có thể không tồn tại , hoặc
thậm trí mang tính đồng biến, và lạm phát ở mức cao mối quan hệ này là
nghịch biến. Một số các nhà Nhiên cứu sau này như Sarel (1996), Gosh và
Philip(1998), Shan và Senhadji(2001), và một số các nhà nghiên cứu khác đã
cố gằng tìm ra đặc điểm đặc biệt về mối quan hệ giữa lạm phát và tăng
trưởng kinh tế. Bằng các nghiên cứu khác nhau họ đã tìm ra một ngưỡng lạm
phát, mà tại ngưỡng đó nếu lạm phát vượt ngưỡng sẽ có tắc động tiêu cực
(tác động ngược chiều) đến tăng trưởng. Sarel ngưỡng lạm phát là 8%,Shan
và Senhadji ngưỡng lạm phát cho các nước đang phát triển là 11-12%, các
nước công nghiệp khoảng 1-3%. Gần đây nhất là nghiên cứu của tác giả
Khan(2005) đã tập trung nghiên cứu xác định mức lạm phát tối ưu . Kết quả
Khan đã tìm ra mức lạm phát tối ưu đối với các nước vùng Trung Đông và
Trung Á là khoảng 3.2%.
Học thuyết kinh tế vĩ mô đã khẳng định, nếu sản lượng thực tế vượt
sản lượng tiềm năng sẽ làm lạm phát gia tăng. Thực tế 2005-2006 lạm phát
thế giới gia tăng, ngoài nguyên nhân giá dầu còn do nền kinh tế nhiều nước
phát triển quá nóng.
Sử dụng mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế, một số
nước đã sử dụng lạm phát cao để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên,
nhiều nhà nghiên cứu kinh tế cho rằng, đây là giải pháp thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế nhanh, nhưng kém bền vững. Hay còn nói đó là giải pháp tăng trưởng
“ bong bóng”.
13
Xu hướng các nước phát triển chọn giải pháp tăng trưởng kinh tế thực
chất, đó là dựa trên cơ sở giá cả ổn định ở mức thấp. Căn cứ biện luận cho
giải pháp này là: Trong nền kinh tế thị trường, lạm phát ổn định thì tình dự
báo được nâng cao. Điều đó giúp các nhà đầu tư có thể xây dựng được các
phương án đầu tư hiệu quả. Đối với người tiêu dùng thì chi tiêu yên tâm, họ
không phải lo cân nhắc các mặt hàng khác để thay thế do giá tăng. Tất cả
điều đó đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thưc chất. Hiện nay các
nước phát triển chọn mức lạm phát gần 2% là mức tối ưu cho tăng trưởng.
Tuy nhiên cũng phải hiểu rằng, lạm phát ổn định chỉ là điều kiện đủ cho tăng
trưởng kinh tế, còn điều kiện cần cho tăng trưởng phải là vấn đề của Chính
phủ trong việc phát triển nguồn lực, vốn và công nghệ kỹ thuật.....
14
CHƯƠNG 2
LẠM PHÁT VÀ MỐI QUAN HỆ VỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
Ở VIỆT NAM
1. Thực trạng lạm phát ở Việt Nam
1.1. Tình hình lạm phát ở Việt Nam thời gian qua.
Nhìn chung, lạm phát ở nước ta từ năm 2004 đến nay luôn ở mức khá
cao. Từ năm 2007 đến nay, lạm phát luôn cao hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm giai đoạn 2006- 2010 khoảng
7,1%, trong khi đó lạm phát bình quân hàng năm khoảng gần 11%.
Mức lạm phát nói trên ở nước ta cũng cao hơn nhiều so với lạm phát
của các nước trong khu vực. Ví dụ, lạm phát bình quân hàng năm ở Trung
Quốc giai đoạn 2006-2009 khoảng 3%, ở Indonesia khoảng 8,4%, Thái Lan
khoảng 3,1%, Malaysia khoảng 2,7% và Philipine khoảng 5,8%,v.v… Bốn
tháng đầu năm nay, lạm phát ở nước ta vẫn ở mức cao và diễn biến phức tạp.
Lạm phát cuối tháng 4 năm 2011 so với tháng 12 năm 2010 đã tăng 9,64%;
tăng 17,51% so với tháng 4 năm 2010; lạm phát 4 thỏng đầu năm 2011 so với
cùng kỳ năm 2010 đã tăng 13,95%. Như vậy, lạm phát 4 tháng đầu năm (so
với các kỳ gốc khác nhau của năm 2010) đều đã cao hơn nhiều so với chỉ tiêu
lạm phát của năm 2011 đã được Quốc hội thông qua. Lạm phát 4 tháng đầu
năm nay ở nước ta cũng cao hơn nhiều so với các nước khác trong khu vực.
Ví dụ, lạm phát tháng 3 năm nay ở Trung Quốc là 5,4% so với cùng kỳ năm
ngoái; còn lạm phát quý I năm nay ở Indonesia có thể tăng lên 7,1%, ở
Phillipine là 4,9%, Thái Lan là 4% và Malaysia là khoảng 2,8% so với cùng
kỳ năm ngoái.Lạm phát cao, kéo dài trong nhiều năm liên tục đã gây nhiều
tác động tiêu cực đến sản xuất và đời sống của người dân. Lạm phát cao là
một trong các biểu hiện của bất ổn kinh tế vĩ mô.
15
Lạm phát cao và bất ổn kinh tế vĩ mô là bất lợi lớn đối với khuyến
khích và thu hút đầu tư; làm cho môi trường kinh doanh ở nước ta kém cạnh
tranh hơn so với các nước khác. Lạm phát cao, biến động liên tục đã làm gia
tăng chi phí sản xuất, giảm lợi nhuận; làm cho các kế hoạch đầu tư trung và
dài hạn trở nên rủi ro hơn và không dự tính được một cách chắc chắn. Hệ quả
là, các doanh nghiệp nói chung không những phải cắt giảm đầu tư phát triển,
mà có thể phải cắt giảm cả quy mô sản xuất hiện hành để đối phó với lạm
phát cao.
Thực tế cho thấy, lượng vốn FDI đăng ký bốn tháng đầu năm nay chỉ
bằng 52% của cùng kỳ năm ngoái. Lần đầu tiên trong hơn 10 năm qua, số
doanh nghiệp đăng ký mới và số vốn đăng ký đã giảm xuống, chỉ bằng
khoảng 75% của cùng kỳ năm ngoái. Điều tra của Hiệp hội doanh nghiệp
châu Âu cũng cho thấy chỉ số lạc quan kinh doanh của các doanh nghiệp
thành viên ở Việt Nam trong quý I/2011 đã giảm đáng kể. Lạm phát cao
(nhưng tiền lương và thu nhập bằng tiền khác của người lao động không tăng
lên tương ứng) đã làm cho thu nhập thực tế của họ giảm xuống. Ví dụ, trong
hai năm qua, lạm phát đã làm cho thu nhập thực tế của người lao động mất
hơn 20%; từ đó, đời sống của đa số dân cư đã trở nên khó khăn hơn nhiều so
với trước đây. Lạm phát cao làm giảm giá trị thực của đồng tiền nội tệ, làm
xói mòn giá trị số tiền tiết kiệm của dân chúng; làm giảm lòng tin và mức độ
ưa chuộng của người dân trong việc nắm giữ và sử dụng đồng nội tệ. Điều đó
vừa gây áp lực thêm đối với lạm phát, bất ổn kinh tế vĩ mô trước mắt, vừa
làm xói mòn nền tảng phát triển lâu dài trong trung và dài hạn.
1.2. Nguyên nhân dẫn đến lạm phát ở Việt Nam trong thời gian qua.
Thực trạng lạm phát ở nước ta như trình bày trên đây có nhiều nguyên
nhân. Giá cả trên thị trường thế giới tăng cao và các điều kiện quốc tế bất lợi
khác rõ ràng có tác động đến giá cả và lạm phát ở nước ta. Tuy vậy, lạm phát
16
cao kéo dài và sự chênh lệch rất lớn giữa lạm phát ở nước ta và các nước
trong khu vực, kể cả các nước có nền kinh tế mở hơn, chứng tỏ các nguyên
nhân chủ quan, bên trong vẫn là chủ yếu.
Nguyên nhân sâu xa, bao trùm và cơ bản nhất của thực trạng lạm phát
hiện nay bắt nguồn từ mô hình tăng trưởng và cách thức mà chúng ta sử dụng
để đạt được mục đích tăng trưởng. Tăng trưởng của chúng ta cho đến nay chủ
yếu vẫn dựa vào mở rộng đầu tư, nhưng đầu tư nhìn chung lại kém hiệu quả,
nhất là đầu tư nhà nước. Tổng đầu tư xã hội nhiều năm liền luôn ở mức cao
từ 40-42% GDP; hệ số sinh lời từ đồng vốn đầu tư (viết tắt là ICOR) cao và
đang có xu hướng gia tăng. Trong giai đoạn 2006-2010 hệ số này của khu
vực nhà nước là 10,2, của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài là 9,7, và của
khu vực tư nhân trong nước là 5(1). Đóng góp của yếu tố vốn vào tăng
trưởng trong giai đoạn nói trên chiếm khoảng 65%; các yếu tố khác như đổi
mới công nghệ, tri thức và kỹ năng, phương thức tổ chức quản lý,… góp
phần chưa đáng kể. Do đó, cái giá hay phí tổn phải trả cho một đơn vị tăng
trưởng là rất lớn và có xu hướng tăng thêm. Tuy mô hình và cách thức tăng
trưởng đã tới hạn nhưng chúng ta vẫn dựa vào đó để đạt được mục tiêu tăng
trưởng, do đó về ngắn hạn thì cách chủ yếu để đạt tăng trưởng đó là mở rộng
đầu tư. Do đó, tốc độ tăng trưởng tín dụng, tổng phương tiện thanh toán,
thâm hụt tài khóa gia tăng, thâm hụt cán cân thanh toán gia tăng… tất cả
những điều đó là nguyên nhân mang tính nội tại làm cho lạm phát của chúng
ta trong mấy năm qua luôn ở mức cao và cao hơn nhiều so với các nước.
Còn đối với lạm phát 4 tháng đầu năm nay, thì ngoài những nguyên
nhân nói trên, thì điều chỉnh tăng giá xăng dầu, điện, tỷ giá, các mặt hàng
khác .v.v… là nguyên nhân trực tiếp làm cho lạm phát trong mấy tháng gần
đây cao hơn so với cùng kỳ của các năm trước.
1.3. Một số biện pháp Chính phủ đã thực hiện.
17
Để đối phó với lạm phát cao và bất ổn kinh tế vĩ mô, Chính phủ đã ban
hành và thực thi Nghị quyết số 11/2010/NQ-CP ngày 24 tháng 2 năm 2011
về kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và bảo đảm an sinh xã hội. Ngày
16 tháng 3 năm 2011, Bộ Chính trị ra Kết luận số 02-KL/TW về tình hình
kinh tế-xã hội năm 2011. Kết luận của Bộ chính trị cũng đã nhấn mạnh đến
tập trung ưu tiên hàng đầu là việc kiềm chế lạm phát; ổn định kinh tế vĩ mô
và đảm bảo an sinh xã hội; coi đây vừa là nhiệm vụ cấp bách ngắn hạn của
năm 2011, vừa là nhiệm vụ quan trọng của một vài năm tiếp theo. Hàng loạt
các giải pháp cụ thể đã dược các bộ, ngành và địa phương triển khai thực
hiện, như: thắt chặt tín dụng, giảm cung tiền tệ, tăng lãi suất, điều chỉnh tỷ
giá, quản lý chặt chẽ thị trường vàng, quản lý, kiểm soát chặt hoạt động thị
trường ngoại tệ phi chính thức, rà soát, cắt, hỗn, giảm và điều chuyển vốn
đầu tư nhà nước, thực hiện trợ cấp cho các tầng lớp, nhóm dân cư thu nhập
thấp, ưu tiên tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, cho nông nghiệp và
nông thôn, cho xuất khẩu, lập danh mục hạn chế nhập, giảm nhập khẩu, giảm
thâm hụt cán cân thanh toán,.v.v…
Các giải pháp nói trên đã đạt được những kết quả ban đầu như tỷ giá có
xu hướng ổn định dần; thị trường ngoại tệ phi chính thức giảm về quy mô và
mức độ hoạt động; cung-cầu ngoại tệ bớt căng thẳng hơn; quy mô thị trường
vàng tự do được thu hẹp đáng kể, nhất là vàng miếng; việc sử dụng vàng làm
phương tiện đầu cơ, làm phương tiện thanh toán cũng giảm hẳn,.v.v…
Tuy vậy, việc triển khai Nghị quyết số 11/2011/NQ-CP và Kết Luận số
02-KL/TW cho đến nay còn có một số khiếm khuyết sau đây:
- Các giải pháp về tiền tệ đã được thực hiện khá quyết liệt, bám sát nội dung
và tinh thần Nghị quyết số 11/2011/NQ-CP và Kết luận số 02-KL/TW của
Bộ Chính trị. Tuy vậy, một số giải pháp, nhất là giải pháp về lãi suất đã tỏ ra
là chưa thật hợp lý.
18