Nâng cao chất lượng và hiệu quả chương trình truyền hình địa phương đồng bằng sông cửu long

  • pdf
  • 108 trang
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

HỒ MINH TRỬ

NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG VÀ HIỆU QUẢ CHƯƠNG TRÌNH
TRUYỀN HÌNH ĐỊA PHƯƠNG ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
Khảo sát qua đài Truyền hình Vĩnh Long, giai đọan 2000 – 2004

Chuyên ngành: Báo chí học
Mã số: 60. 32. 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS-TS DƯƠNG XUÂN SƠN

TP. Hồ Chí Minh 11-2006

NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT
- ĐBSCL: Đồng bằng sông Cửu Long
- BCTH: Báo chí truyền hình
- TH: Truyền hình
- PT-TH: Phát thanh – Truyền hình
- THVN: Truyền hình Việt Nam
- THCT: Tuyền hình Cần Thơ
- THVL: Truyền hình Vĩnh Long
- THĐT: Truyền hình Đồng Tháp
- KTXH: Kinh tế – xã hội
- CTXH: Chính trị – xã hội
- KTTT: Kinh tế thị trường
- DVQC: Dịch vụ quảng cáo
- QC: Quảng cáo
- CMCĐ: Chuyên mục-chuyên đề
- THTT: Truyền hình trực tiếp
- BVTV: Bảo vệ thực vật

MỤC LỤC
-Lời cam đoan…………………………………………………….....02
-Lời cảm
ơn…………………………………………………………………………… 03
- Bảng chữ viết tắt………………………………………………… 04
- Mục lục………………………………………………………..........05
MỞ ĐẦU ……………………………………………………………………07

CHƢƠNG I: Vài nét về sự hình thành và phát triển lọai hình
báo chí truyền hình khu vực ĐBSCL
I. Sự ra đời và vai trò của đài truyền hình Cần Thơ……………………15
II. Sự ra đời của đài truyền hình Đồng Tháp lần thừ nhất
và ý nghĩa của
nó……………………………………………………………….............20
III. Sự ra đời của đài Truyền hình Vĩnh Long………………................24
CHƢƠNG II: Đổi mới và nâng cao chất lƣợng chƣơng trình
truyền hình địa phƣơng ĐBSCL, khảo sát qua
đài truyền hình Vĩnh Long
I. Khái niệm về chất lượng của báo chí………………………………36
II. Chương trình truyền hình và vấn đề chất lượng
của chương trình truyền
hình……………………………………………………………………….38
III. Quá trình đổi mới và nâng cao chất lượng chương trình
của đài truyền hình Vĩnh Long……………………………………48

CHƢƠNG III: Hiệu quả chƣơng trình truyền hình địa phƣơng
ĐBSCL, khảo sát qua đài truyền hình Vĩnh Long
I. Khái niệm về hiệu quả và hiệu quả họat động báo chí………..........75
II. Những điều kiện khách quan góp phần nâng cao hiệu quả
họat động của lọai hình báo chí truyền hình ĐBSCL và đài
truyền hình Vĩnh
Long………………………………………………………………………....81
III. Hiệu quả họat động của đài truyền hình Vĩnh Long…………….84

KẾT LUẬN
………………………………………………………………………………110

-Phụ lục..............................................................................................121
-Tài liệu tham khảo……………………………………………… 174

Hồ Minh Trử


Nâng cao chất lượng & Hiệu quả chương trình

MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài:
Có thể nói, ĐBSCL là một trong những khu vực mà loại hình báo chí
truyền hình (TH) phát triển mạnh nhất cả nước. Toàn vùng có13 tỉnh, 1 thành
phố trực thuộc Trung ương, với tổng diện tích đất tự nhiên chưa đầy 40.000km2
mà đã có đến 14 đài truyền hình, bao gồm Trung tâm sản xuất chương trình
truyền hình Việt Nam (THVN) tại Cần Thơ và 13 đài truyền hình địa phương
trực thuộc UBND các tỉnh. Vì vậy sự cạnh tranh để thu hút khán giả giữa các đài
trong vùng luôn diễn ra hết sức quyết liệt. Trong bối cảnh đó, truyền hình Vĩnh
Long (THVL) mặc dù ra đời sau một số đài bạn, nhưng đã nhanh chóng vươn lên
thành một đài mạnh của khu vực. Thể hiện trên nhiều phương diện. Bên cạnh các
chương trình giải trí – thể thao phong phú, hấp dẫn, đài còn rất chú trọng đến
việc khai thác các chương trình khoa học – kỹ thuật, phổ biến kiến thức. Mặt
khác vẫn luôn đảm bảo giữ vững tôn chỉ, mục đích của mình bằng cách không
ngừng đổi mới và nâng cao chất lượng các chương trình chính trị – xã hội
(CTXH), từ chương trình thời sự, đến các chuyên mục, chuyên đề (CM-CĐ).
Đặc biệt, đài THVL còn được xác định là một trong những đài có nguồn thu dịch
vụ quảng cáo (DVQC) lớn trong hệ thống các đài truyền hình cả nước. Kết quả
này là điều kiện hết sức thuận lợi để đài tăng cường các hoạt động xã hội, góp
phần nâng cao uy tín chính trị, đồng thời tái đầu tư phát triển sự nghiệp ngày
càng vững mạnh. Và dĩ nhiên trong quá trình tự mày mò đi lên ấy, THVL vẫn
không thể tránh khỏi những khiếm khuyết cần phải được điều chỉnh, sửa đổi để
phát triển toàn diện và bền vững hơn, trước sự vận động và biến đổi không
ngừng của đời sống xã hội, cũng như đời sống báo chí. Do đó việc nghiên cứu,
làm rõ những yếu tố nào đã giúp cho THVL lớn mạnh, và đâu là những hạn chế,
yếu kém của đài thời gian qua là điều rất cần thiết, có ý nghĩa quan trọng cả về lý
7

Kho tài li u mi n phí c a Ket-noi.com blog giáo d c, công ngh
Hồ Minh Trử


Nâng cao chất lượng & Hiệu quả chương trình

luận lẫn thực tiễn đối với hoạt động của các đài TH trong khu vực ĐBSCL, cũng
như công tác quản lý và định hướng phát triển loại hình báo chí TH nói chung,
của Đảng và Nhà nước trong thời gian tới.
1.1 Ý nghĩa lý luận:
Mặc dù đến nay những luận điểm cơ bản về vai trò, chức năng, nhiệm vụ
của báo chí cách mạng nói chung, và của loại hình BCTH nói riêng đã được rút
kết và hệ thống hóa tương đối hoàn chỉnh bởi các nhà nghiên cứu lý luận báo chí
nhiều thế hệ. Song, trước những thay đổi nhanh chóng về mọi mặt của đời sống
xã hội, do sự nghiệp đổi mới đất nước mang lại, những luận điểm ấy tất yếu phải
được tiếp tục điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp. Cụ thể ở đây là những quan điểm
mới cần được xác lập về hoạt động của báo chí địa phương, mà trước hết là TH,
một bộ phận quan trọng của hệ thống báo chí quốc gia, đã và đang có những
đóng góp hết sức tích cực vào việc chỉ đạo phát triển kinh tế-xã hội (KTXH) của
Đảng và nhà nước ở khắp mọi nơi.
1.2 Ý nghĩa thực tiễn:
Bên cạnh những vấn đề lý luận, đề tài này còn có khả năng góp phần làm
sáng tỏ hàng loạt vấn đề thực tiễn đang được đặt ra một cách hết sức bức xúc
trong hoạt động của loại hình BCTH tại các địa phương, mà nhất là trong điều
kiện đặc thù của ĐBSCL hiện nay. Như, liệu các đài truyền hình địa phương có
thể đứng vững trong cơ chế kinh tế thị trường (KTTT) mà không bị rơi vào xu
hướng thương mại hóa, xa rời tôn chỉ, mục đích? Hay, liệu có quá lãng phí cho
ngân sách nhà nước khi phải đầu tư xây dựng và phát triển các đài truyền hình
địa phương như một số người đã nghĩ? Hay, sự tồn tại của các đài truyền hình
địa phương ở ĐBSCL có thật sự cần thiết? Và muốn giữ vững tôn chỉ, mục đích,
thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ của mình, đài truyền hình các tỉnh ĐBSCL cần
phải họat động như thế nào? định hướng phát triển ra sao? Đây sẽ là những căn

8

Hồ Minh Trử


Nâng cao chất lượng & Hiệu quả chương trình

cứ hết sức quan trọng giúp cho những người làm công tác quản lý báo chí có
được cái nhìn tòan diện và chính xác hơn về vị trí, vai trò của các đài truyền hình
địa phương khu vực ĐBSCL trong hệ thống báo chí cả nước. Từ đó mà hình
thành những định hướng phát triển đúng đắn và bền vững hơn cho hoạt động của
loại hình BCTH trong thời gian tới.
II. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài:
Mục tiêu chủ yếu của việc nghiên cứu đề tài này là nhằm làm rõ những
quan điểm và biện pháp chỉ đạo của Ban lãnh đạo đài Phát thanh - truyền hình
Vĩnh Long đối với việc xây dựng và nâng cao chất lượng chương trình TH,
nhằm tạo ra khả năng thu hút khán giả một cách mạnh nhất, trong điều kiện mà
sự cạnh tranh khán giả giữa các đài TH hiện có ở ĐBSCL diễn ra ngày càng
quyết liệt. Đồng thời thông qua những kết quả mà đài THVL đã đạt được trên
nhiều phương diện họat động, đề tài sẽ chứng minh cho tính đúng đắn của những
quan điểm và biện pháp chỉ đạo đó, nhằm đảm bảo cho hoạt động của đài không
bị chệch hướng trước những tác động mang tính hai mặt của cơ chế KTTT.
Ngoài ra, đề tài nghiên cứu cũng sẽ phân tích làm rõ những mặt còn hạn chế, yếu
kém mà đài THVL cần phải tiếp tục đổi mới, để sớm khắc phục, nhằm không
ngừng nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của mình, góp phần xứng
đáng vào sự phát triển bền vững của lọai hình BCTH khu vực ĐBSCL.
III. Đối tượng và Phạm vi nghiên cứu:
Đề tài này không nghiên cứu toàn bộ quá trình hình thành và phát triển
của đài THVL từ khi được thành lập đến nay, càng không kể lể những thành tích
mà đài đã đạt được trong suốt thời gian đó, mà chủ yếu là tập trung nghiên cứu
về những nỗ lực của BLĐ đài PT-TH Vĩnh Long trong việc cải tiến, nâng cao
chất lượng chương trình TH theo hướng ngày càng hấp dẫn, bổ ích hơn đối với
công chúng, tạo điều kiện thuận lợi để tăng cường thu hút quảng cáo, nâng cao

9

Hồ Minh Trử


Nâng cao chất lượng & Hiệu quả chương trình

không ngừng nguồn thu dịch vụ của đài hàng năm. Trên cơ sở đó đẫy mạnh các
họat động xã hội, từ thiện để vừa hỗ trợ cho tỉnh thực hiện một số mặt công tác
mang ý nghĩa chính trị sâu sắc, vừa tự nâng cao uy tín của đài trong lòng khán
giả gần xa. Ngòai ra, khi cần thiết phân tích làm rõ những điểm khác biệt giữa
đài THVL với các đài TH trong khu vực, đề tài cũng sẽ mở rộng liên hệ, đối
chiếu với một số đài bạn lân cận, mà chủ yếu là trung tâm THVN tại Cần Thơ
(CVTV), đài PT-TH thành phố Cần Thơ (CT43) và đài THĐT (THĐT), Bởi đây
là các kênh TH được công chúng quan tâm nhiều ở ĐBSCL, và có khả năng
cạnh tranh với đài THVL mạnh nhất.
Về giới hạn thời gian, đề tài này chỉ tập trung nghiên cứu những nỗ lực
trong việc nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của đài THVL từ năm
2000 đến năm 2004 mà thôi. Bởi đây là giai đoạn mà các chương trình và thời
lượng phát sóng của đài đã được hình thành tương đối hoàn chỉnh. Nguồn thu từ
DVQC đã được nâng lên khá cao, đủ để khẳng định sự vượt trội so với các đài
TH bạn trong cùng khu vực. Các hoạt động xã hội từ thiện đã được đài thực hiện
khá nhuần nhuyễn, đạt hiệu quả cao, tạo được tiếng vang lớn trong lòng công
chúng. Các lọai trang thiết bị và trình độ nghiệp vụ của lực lượng phóng viên,
biên tập viên cũng đã được nâng lên tương đối đồng đều. Đặc biệt là từ năm
2002 đài THVL còn được UBND tỉnh quyết định cho chuyển sang thực hiện thí
điểm mô hình sự nghiệp có thu, tự cân đối tài chính cho đơn vị, kể cả các đài
truyền thanh – truyền hình huyện thị.
IV. Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài được nghiên cứu dựa trên nền tảng lý luận chung của chủ nghĩa
Mac – Lê nin, và tư tưởng Hồ Chí Minh về báo chí cách mạng, đã được các nhà
nghiên cứu hệ thống hóa, cụ thể hóa thành những cơ sở lý luận cơ bản về họat
động báo chí trong xã hội ta. Đồng thời cũng bám sát những quan điểm chỉ đạo

10

Hồ Minh Trử


Nâng cao chất lượng & Hiệu quả chương trình

cụ thể của Đảng và Nhà nước đối với báo chí trong thời kỳ đổi mới của đất nước
hiện nay. Thể hiện qua những chỉ thị, nghị quyết mới nhất. Lấy đó làm thước đo
cho mọi hoạt động thực tiễn của đài THVL nói riêng và lọai hình BCTH nói
chung trong khu vực ĐBSCL thời gian qua. Ngòai ra, để có sự phân tích, đánh
giá một cách đúng đắn, khách quan hiệu quả của những hoạt động ấy, với đầy đủ
những luận cứ, luận chứng trước khi đưa ra những luận điểm khoa học về các
vấn đề mà yêu cầu nghiên cứu đề tài đặt ra, đề tài còn vận dụng tổng hợp các
phương pháp khoa học khác, như phương pháp lịch sử, phương pháp so sánh đối
chiếu, cũng như phương pháp điều tra xã hội học và phương pháp phỏng vấn
sâu, thông qua những nguồn dữ liệu cơ bản sau:
+ Các báo cáo kết quả hoạt động thực tế của đài THVL.
+ Số liệu thống kê của tỉnh Vĩnh Long và một số tỉnh ĐBSCL
+ Kết quả nghiên cứu chỉ số khán giả của TNS - Taylor Nelson Sofres
International Market research – Cơ quan nghiên cứu thị trường toàn cầu của
nước ngoài có chi nhánh tại Việt Nam, còn gọi là TNS Media Vietnam. Được
thực hiện trên địa bàn TP Cần thơ, một trong 4 thị trường nghiên cứu khán giả và
thị phần truyền hình mà cơ quan này chọn nghiên cứu trên tòan lãnh thổ Việt
Nam (Hà Nội, Đà Nẵng, Tp.Hồ Chí Minh. Cần Thơ)
+ Kết quả điều tra nông dân về nhận thức, niềm tin và tập quán sinh họat
trong nông thôn. Do Trung tâm BVTV phía Nam thực hiện.
+ Kết quả phỏng vấn nông dân về phát thanh môi trường tại TP Cần Thơ.
Do Trung tâm BVTV phía Nam thực hiện.
+ Kết quả điều tra khán giả bằng bảng hỏi của người viết luận văn.
+ Phỏng vấn sâu một số cán bộ lãnh đạo, cán bộ hưu trí, những người
quan tâm, am hiểu về các phương tiện thông tin đại chúng trong và ngòai tỉnh.
V. Lịch sử nghiên cứu đề tài:

11

Hồ Minh Trử


Nâng cao chất lượng & Hiệu quả chương trình

Không như các dạng đề tài khác, đề tài nghiên cứu về báo chí địa phương
nói chung, trong đó có truyền hình, là dạng đề tài luôn mang tính 2 mặt: vừa cũ
vừa mới. Do đây là dạng đề tài đã từng được nhiều người thực hiện, nhưng
không thể có chuyện trùng lắp lẫn nhau. Bởi lẽ mỗi đài truyền hình địa phương
đều có đặc điểm, và điều kiện hoạt động riêng. Quan điểm xây dựng chương
trình, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, và khả năng đầu tư rất khác nhau nên hiệu
quả đạt được chắc chắn cũng sẽ không giống nhau. Đó là chưa kể mỗi đề tài đều
có mục tiêu, nhiệm vụ và góc độ nghiên cứu riêng. Điều đó cho thấy bất kỳ lúc
nào những đề tài nghiên cứu về báo chí địa phương, bao hàm cả loại hình BCTH,
cũng đều có vị trí độc lập của nó. Cụ thể như đề tài này cũng vậy. Thời gian qua
cũng đã có nhiều đề tài nghiên cứu về BCTH khu vực ĐBSCL, mà gần đây nhất
có thể kể đến như đề tài: “Nâng cao chất lượng tin tức thời sự sản xuất tại đài
Truyền hình Cần Thơ” – Luận văn thạc sĩ báo chí năm 2004 của Lâm Thiện
Khanh, hay đề tài: “Tổ chức sản xuất chương trình thời sự truyền hình ở đài PTTH Đồng Tháp” – Luận văn thạc sĩ báo chí năm 2005 của Dương Thị Thanh
Thủy, cùng được thực hiện tại Phân viện Báo chí và Tuyên truyền, thuộc Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Mặc dù cả hai đều nghiên cứu về BCTH
khu vực ĐBSCL, nhưng chỉ tập trung vào thể loại tin tức thời sự, mà chủ yếu
vẫn là hoạt động thông tin thời sự của Trung tâm THVN tại Cần Thơ và đài
Truyền hình Đồng Tháp (THĐT). Vì vậy, đề tài “Nâng cao chất lượng và hiệu
quả chương trình truyền hình địa phương ĐBSCL” cho đến lúc này vẫn tuyệt
nhiên mới mẻ. Bỡi phạm vi nghiên cứu bao quát hơn so với hai đề tài vừa nêu.
Đồng thời lại được khảo sát qua đài THVL là chính. Ở đây nếu có kế thừa những
thành tựu nghiên cứu của các đồng nghiệp đi trước, thì đó cũng chẳng qua là một
số cơ sở lý luận và kinh nghiệm nghiên cứu mà thôi.
VI. Kết cấu của luận văn:

12

Hồ Minh Trử


Nâng cao chất lượng & Hiệu quả chương trình

Luận văn gồm có phần mở đầu, phần kết luận và 3 chương chính, được
kết cấu theo trình tự sau:
Phần mở đầu
Chương I: vài nét về sự hình thành và phát triển của lọai hình báo chí
truyền hình khu vực ĐBSCL.
I. Sự ra đời và vai trò của đài Truyền hình Cần Thơ (THCT)
II. Sự ra đời của đài Truyền hình Đồng Tháp (Lần thứ nhất) và ý nghĩa
của nó.
III. Sự ra đời của đài Truyền hình Vĩnh Long (THVL)
Chương II: Đổi mới và nâng cao chất lượng chương trình truyền hình địa
phương ĐBSCL, khảo sát qua đài Truyền hình Vĩnh Long.
I. Chất lượng và chất lượng của báo chí
II. Chương trình truyền hình và chất lượng của chương trình truyền hình.
III. Quá trình đổi mới và nâng cao chất lượng chương trình của đài
Truyền hình Vĩnh Long
Chương III: Hiệu quả chương trình truyền hình địa phương ĐBSCL, khảo
sát qua đài Truyền hình Vĩnh Long.
I. Hiệu quả và hiệu quả hoạt động báo chí.
II. Những điều kiện khách quan góp phần nâng cao hiệu quả họat động
của báo chí truyền hình ĐBSCL và đài THVL.
III. Một số hiệu quả họat động cụ thể của đài THVL.
Phần kết luận

Kho tài li u mi n phí c a Ket-noi.com blog giáo d c, công ngh

13

Hồ Minh Trử

Nâng cao chất lượng và hiệu quả chương trình…

Chương Một
VÀI NÉT VỀ SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
LỌAI HÌNH BÁO CHÍ TRUYỀN HÌNH KHU VỰC ĐBSCL.
I. Sự ra đời và vai trò của đài Truyền hình Cần Thơ:
1.1 Những điều kiện và yêu cầu khách quan:
Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) là một trong những đồng bằng
châu thổ rộng, phì nhiêu của Đông Nam Á và thế giới. Ngày nay vùng đất này
bao gồm 12 tỉnh và 1 thành phố là: Long An; Tiền Giang; Vĩnh Long, Bến Tre;
Đồng Tháp; Trà Vinh; Hậu Giang; Sóc Trăng; Bạc Liêu; An Giang, Kiên
Giang; Cà Mau và thành phố Cần Thơ. Có diện tích đất tự nhiên 39.712 km2 ,
chiếm trên 12% diện tích cả nước. Dân số gần 17 triệu người, chiếm 22% dân
số cả nước. Đây là một vùng đất đa dân tộc và đa tôn giáo.
Về dân tộc, bên cạnh dân tộc Kinh chiếm trên 90%, ở ĐBSCL còn có
khỏang 6,5% đồng bào dân tộc Khmer, sống tập trung ở các tỉnh Trà Vinh, Sóc
Trăng, An Giang, Kiên Giang. Còn lại là người Hoa, và một ít người Chăm.
Về tôn giáo, ĐBSCL là nơi có nhiều hệ phái và tổ chức tôn giáo tồn tại
đan xen với nhau, như Phật giáo, Thiên Chúa giáo, Tin Lành, Cao Đài, Hòa
Hảo … Riêng người Khmer, tuyệt đại đa số theo đạo Phật tiểu thừa, người
Chăm theo đạo Hồi.
Trong lịch sử, do âm mưu chia rẽ của chủ nghĩa thực dân, đế quốc, cùng
mưu đồ cá nhân của một số chức sắc tôn giáo, khu vực này đã từng xảy ra
những mâu thuẫn, xung đột dân tộc và tôn giáo khá gay gắt, thậm chí đổ máu.
Tuy nhiên, nhìn chung nhân dân ĐBSCL rất giàu truyền thống cách
mạng, hầu hết các tỉnh đều có những người con ưu tú của quê hương tham gia
cách mạng từ thời thành lập Đảng. Trong Cách mạng tháng Tám năm 1945
nhân dân ĐBSCL là bộ phận quan trọng của lực lượng quần chúng dưới sự
15

Hồ Minh Trử

Nâng cao chất lượng và hiệu quả chương trình…

lãnh đạo của Đảng, đứng lên đấu tranh giành chính quyền. Trong 9 năm kháng
chiến chống Pháp nhân dân ĐBSCL cũng đã đóng góp xứng đáng về sức
người, sức của để cùng nhân cả nước làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ lịch
sử, lật đổ hòan tòan ách thống trị của chủ nghĩa thực dân cũ ở Đông Dương.
Nhất là trong 21 năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước, dù phải trải qua biết
bao gian khổ, hy sinh, nhân dân ĐBSCL vẫn một lòng, một dạ theo Đảng làm
cách mạng, góp phần to lớn vào cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống
nhất đất nước.
Với những điều kiện kinh tế, xã hội khá đặc biệt, và truyền thống đấu
tranh cách mạng kiên cường, bất khuất vốn có của nhân dân ĐBSCL mà trong
suốt cuộc chiến tranh xâm lược miền Nam Việt Nam trước đây, song song với
việc đàn áp các phong trào cách mạng của quần chúng bằng quân sự, chủ nghĩa
thực dân mới Mỹ còn hết sức chú trọng đến các họat động chiến tranh chính trị,
tuyên truyền mị dân, nhằm giành lấy “trái tim, khối óc” của người dân nơi đây.
Đó chính là động lực chủ yếu thúc đẩy sự ra đời khá sớm của lọai hình báo chí
truyền hình trên vùng đất này, mà cụ thể là sự ra đời của đài Truyền hình Cần
Thơ (THCT)
1.2 Sự ra đời của đài Truyền hình Cần Thơ:
Trước năm 1968, mặc dù ở ĐBSCL chưa có đài truyền hình nào, nhưng
trên thực tế họat động của lọai hình BCTH đã thực sự tồn tại trong khu vực, do
Mỹ – ngụy cho lấy chương trình của đài Truyền hình Sài Gòn đưa lên máy bay
phát sóng phủ xuống. Từ năm 1967 Mỹ – ngụy bắt đầu cho xây dựng đài
Truyền hình Cần Thơ, và đến tháng 11 năm 1968 mới phát sóng chính thức,
đánh dấu sự xuất hiện của BCTH trong vùng. Tuy ra đời sau, nhưng ngay từ
đầu đài THCT đã có công suất phát sóng 25KW và cột ăng-ten cao ngang bằng
với đài Truyền hình Sài gòn. Đây là công suất phát hình lớn nhất lúc bấy giờ,

16

Hồ Minh Trử

Nâng cao chất lượng và hiệu quả chương trình…

và chênh lệch đáng kể so với các đài truyền hình đương thời khác (Như các đài
Truyền hình: Huế, Quy Nhơn, Nha Trang đều chỉ có công suất 5KW)
1.2.1 Vai trò của đài Truyền hình Cần Thơ.
ª Trước năm 1975:
Tại sao Mỹ lại đầu tư xây dựng đài THCT với công suất lớn và vượt trội
so với các đài truyền hình khác và tương đương với đài Truyền hình Sài Gòn,
trong khi dân số và diện tích Cần Thơ nhỏ hơn Sài Gòn rất nhiều? Trước hết,
do Cần Thơ là thành phố nằm ngay trung tâm ĐBSCL, vùng đất vốn có sông
rạch chằng chịt, nên việc khai thác truyền hình, đặc biệt là truyền hình công
suất lớn, sẽ phát huy được hiệu quả kỹ thuật và kinh tế rất cao. Bởi điều kiện
trên cho phép đài được phát sóng đẳng hướng cho tòan khu vực, với bán kính
cách đều trung tâm 150Km, mà không hề gặp phải cản ngại nào. Nhờ vậy sóng
TH từ Cần Thơ, phía Bắc có thể tới Long An, phía Nam có thể tới Cà Mau,
Đông đến ven biển, và Tây có thể tới tận Campuchia. Điều này cho thấy rõ,
ngay từ khi mới thành lập đài THCT đã được xác định không phải chỉ để phục
vụ cho khán giả Cần Thơ, mà cho cả khu vực ĐBSCL, với mục tiêu số một là
tuyên truyền chính trị.
Quả thật, xem xét thời điểm thành lập càng cho phép khẳng định mục
tiêu chính trị của nó. Đó là thời kỳ Mỹ tích cực chuẩn bị triển khai chiến lược
“Việt Nam hóa chiến tranh” ở miền Nam. Trong đó các thủ đọan tuyên truyền
chính trị đã được đặc biệt coi trọng. Bằng chứng là sau khi đài THCT ra đời,
Mỹ-ngụy đã cho xây dựng hàng lọat các điểm xem truyền hình công cộng ở
đều khắp các xã, ấp trong khu vực ĐBSCL. Áp dụng chiêu thức của đài TH Sài
Gòn, các chương trình tuyên truyền của đài THCT cũng đã được lồng vào các
tiết mục giải trí một cách rất tinh vi để buộc khán giả phải xem. Hàng ngày các
điểm xem truyền hình công cộng đã họat động đến nửa đêm.

17

Hồ Minh Trử

Nâng cao chất lượng và hiệu quả chương trình…

Trước năm 1975, đài THCT đã được xác định là đài truyền hình có
lượng khán giả đông thứ hai ở miền Nam.
ª Sau năm 1975:
Nhận thức được tầm quan trọng của TH đối với sự ổn định và phát triển
đời sống nhân dân toàn khu vực, ngay sau khi miền Nam được hoàn toàn giải
phóng, ngày 2 tháng 5 năm 1975 chính quyền cách mạng đã nhanh chóng đưa
đài THCT vào họat động trong điều kiện hết sức khó khăn về cơ sở vật chất, kỹ
thuật. Lúc đầu chỉ phát được 3 buổi/ tháng, sau đó mới dần dần phát ổn định
mỗi buổi tối, từ 18g30 đến 23g00. Nhưng nội dung chương trình vẫn phải tiếp
chuyển từ đài TH thành phố Hồ Chí mình về là chính. Mãi đến năm 1980 đài
THCT mới đủ sức tự lực sản xuất chương trình, và đi vào hoạt động hoàn toàn
độc lập, với tư cách là tờ báo ngày duy nhất của khu vực ĐBSCL lúc bấy giờ.
Cũng từ thập niên 80, ti vi (TV) đen trắng bán dẫn đã bắt đầu được lắp
ráp trong nước, ĐBSCL là một trong những vùng sớm được thừa hưởng thành
quả khoa học – kỹ thuật và kinh tế này. Do TV đen trắng bán dẫn nội địa có
khả năng hoạt động với bình ắc-quy, đáp ứng được nhu cầu xem TH của cư
dân những vùng chưa có điện lưới, giúp cho số người được xem TH ở ĐBSCL
nhanh chóng gia tăng. Chương trình của đài THCT có mặt cả ở những vùng
nông thôn xa xôi, hẻo lánh và đầy kênh rạch. Nhiều người dân địa phương ở
ĐBSCL trước đó nhiều tháng mới được xem chiếu phim lưu động một lần, thì
lúc này đã được xem phim truyện, sân khấu hàng đêm qua sóng THCT. Nhờ
vậy đài đã thực hiện rất hữu hiệu công tác thông tin tuyên truyền, và phục vụ
tốt đời sống văn hóa, tinh thần của nhân dân toàn khu vực.
Trong khi đó ở hầu hết các tỉnh ĐBSCL, mặc dù đã thành lập đài phát
thanh – truyền hình (PT-TH) từ rất sớm, nhưng thực chất cho đến đầu những
năm 80 mới chỉ có phát thanh đi vào hoạt động với tư cách là các đài địa
phương độc lập, còn công tác TH ở những nơi đó vẫn do một bộ phận nhỏ nằm
18

Hồ Minh Trử

Nâng cao chất lượng và hiệu quả chương trình…

trong phòng Truyền hình của các đài thực hiện, với nhiệm vụ chủ yếu là cung
cấp thông tin và hình ảnh phục vụ cho đài THCT phát sóng. Điều này càng thể
hiện rõ thế độc tôn của đài THCT ở khu vực ĐBSCL vào những năm đầu sau
giải phóng.
II. Sự ra đời của đài Truyền hình Đồng Tháp lần thứ nhất và ý nghĩa của
nó:
2.1 Sự ra đời của đài Truyền hình Đồng Tháp lần thứ nhất:
Theo Dương Thị Thanh Thủy ghi trong luận văn Cao học Báo chí “Tổ
chức sản xuất chương trình thời sự TH ở đài PT-TH Đồng Tháp” thực hiện
năm 2005, tại Phân viện Báo chí & Truyên truyền, thuộc Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh (Hà Nội) thì đài Truyền hình Đồng Tháp (THĐT) được
thành lập lần thứ nhất vào năm 1985. Ngòai đài Truyền hình thành phố Hồ Chí
Minh và đài THCT, đây là đài TH tỉnh đầu tiên ở ĐBSCL, và cả Nam bộ. Đài
họat động với máy phát sóng Thomson chạy bằng đèn, công suất 1KW, hệ màu
SECAM, truyền tải tín hiệu trên kênh 11VHF.
Trong điều kiện kinh tế đất nước còn nhiều khó khăn, trình độ khoa học
– công nghệ truyền hình còn nhiều hạn chế, việc Đồng Tháp cho xây dựng đài
TH phát sóng màu là một sự đột phá rất táo bạo và đầy tâm huyết. Tuy nhiên,
cũng chính vì vậy mà mà để tồn tại và phát triển lâu dài đài THĐT đã gặp phải
rất nhiều khó khăn, trở ngại.
Một mặt là do sự không tương thích về kỹ thuật giữa máy phát và máy
thu. Tòan bộ máy thu hình của nhân dân khu vực ĐBSCL lúc bấy giờ đều là
máy thu hình đen trắng, chủ yếu dùng để xem kênh 7 đài THCT, phát hệ FCC
đen trắng. Trong khi đài THĐT lại phát hệ SECAM màu, nên nhân dân chỉ có
thể bắt được hình mà không bắt được tiếng. Để giúp nhân dân nghe được tiếng,
khi phát hình đài phải dùng máy phát thanh phát tiếng kèm theo. Vì vậy, nếu
muốn xem truyền hình với đầy đủ hình ảnh và âm thanh vốn có của no,ù thì
19

Kho tài li u mi n phí c a Ket-noi.com blog giáo d c, công ngh
Hồ Minh Trử

Nâng cao chất lượng và hiệu quả chương trình…

bên cạnh chiếc TV để xem hình người dân còn phải đặt thêm một máy radio để
nghe tiếng, rất bất tiện.
Mặt khác là so với thế giới thì máy phát hình màu hệ SECAM, chạy
bằng đèn của đài THĐT lúc ấy đã quá lạc hậu, thường bị hư hỏng. Trong khi
phụ tùng thay thế thì rất hiếm. Muốn mua phải nhập từ nước ngòai, giá cả rất
đắt. Trong khi lúc này đài hòan tòan chưa có được những nguồn thu dịch vụ để
có thể bù đắp phần nào các khỏang chi phí. Thực trạng trên dần dần đã biến đài
THĐT thành một gánh nặng thực sự cho ngân sách tỉnh.
Đó là chưa kể nội dung chương trình cũng nghèo nàn. Mỗi đêm đài chỉ
phát hình khỏang 2 tiếng, từ 19g00 đến 21g00. Trong đó các thể lọai giải trí,
mà chủ yếu là cải lương, chiếm thời lượng nhiều nhất.
Kinh phí họat động ngày càng thiếu hụt, không có nguồn thu để bù đắp,
hiệu quả họat động không cao, kết cục đài THĐT đã buộc phải ngừng phát
sóng, sau 5 năm tồn tại.
2.2 Ý nghĩa của sự ra đời và tồn tại của đài THĐT lần thứ nhất:
Tuy đài THĐT lần thứ nhất ra đời và tồn tại không lâu lắm, nhưng đã để
lại những ý nghĩa rất sâu sắc đối với sự phát triển của lọai hình BCTH truyền
hình ở ĐBSCL.
2.2.1 Đài THĐT lần thứ nhất ra đời cho thấy nhu cầu tuyên truyền
bằng lọai hình BCTH của các tỉnh ĐBSCL là rất lớn và không thể thiếu.
* Trước hết phải khẳng định rằng cả khu vực ĐBSCL vào những năm
đầu sau giải phóng chỉ có mỗi một đài THCT là quá ít, không thể đáp ứng được
nhu cầu thông tin và chỉ đạo phát triển KTXH của các tỉnh trong vùng. Như
trong bài tham luận về họat động thông tin đại chúng ở ĐBSCL những năm sau
giải phóng, tại Hội nghị khoa học xã hội về ĐBSCL lần I – năm 1982, ông
Nguyễn Thành – Nguyên Giám đốc cơ quan thường trú Uûy ban PT-TH Việt
Nam tại TP Hồ Chí Minh đã nói: … “so với yêu cầu của cách mạng, so với đòi
20

Hồ Minh Trử

Nâng cao chất lượng và hiệu quả chương trình…

hỏi của quần chúng, so với khả năng, đặc biệt là so với đòi hỏi của Đảng và
Chính phủ đối với ĐBSCL, thì công tác thông tin đại chúng (trong đó có truyền
hình – ND) hiện nay ở đây thật là chưa thấm vào đâu”. Riêng đối với lọai hình
BCTH ông cho rằng: “Vô tuyến truyền hình cũng bị hạn chế về mặt phát huy
tác dụng ở chỗ số máy thu ít, lại tập trung ở thị xã, thị trấn, thiếu nguồn điện,
thiếu cơ sở sửa chữa. Số lượng chương trình, cũng như lượng thông tin của các
tỉnh trong chương trình (của đài THCT – ND) còn bị hạn chế”. Từ đó ông đề
nghị: “Đối với truyền hình, cũng như đối với các bộ môn khác, cần cải tiến nội
dung, tăng cường nội dung của các tỉnh” 1…
* Mặt khác, lúc này máy phát hình đen trắng của đài THCT đã già cỗi,
xuống cấp, thường xuyên hư hỏng, làm cho chất lượng hình ảnh và phạm vi
phủ sóng bị giảm sút. Nhất là từ khi đài THCT chuyển sang sử dụng máy phát
hình màu thì công suất chỉ còn phân nửa so với trước. Theo đó vùng phủ sóng
của đài cũng đã bị thu hẹp. Ở nhiều nơi trước đó thu tốt sóng đài THCT phát
trên kênh 7 hệ FCC đen trắng, nhưng nay cũng đã gặp khó khăn khi thu sóng
của đài này trên kênh 6 hệ SECAM màu. Điều đó càng làm cho nhu cầu phát
triển các đài truyền hình tỉnh, mà trước hết là các tỉnh xa Tp. Cần Thơ, trở nên
hết sức bưc xúc. Đài truyền hình Đồng Tháp ra đời là bằng chứng sinh động về
thực tế này.
2.2.2 Đài THĐT lần thứ nhất ra đời là bước đi tiên phong, nhưng
chưa hợp thời.
Năm 1986, tại Đại hội đại biểu tòan quốc Đảng Công sản Việt Nam lần
thứ VI, đường lối đổi mới của Đảng mới được khởi xướng. Như vậy đài THĐT
được xây dựng và đi vào họat động vào cuối thời kỳ bao cấp , nhưng vẫn chưa
có kinh tế thị trường, Việt Nam vẫn còn bị bao vây, cấm vận bởi Mỹ và các
1

Nhiều tác giả: Một số vấn đề KHXH về ĐBCL. Nxb KHXH Hà Nội-1982. Tr. 335-346

21

Hồ Minh Trử

Nâng cao chất lượng và hiệu quả chương trình…

nước phương Tây. Trên thị trường, các lọai hàng hóa nói chung đều nghèo nàn,
nhất là các mặt hàng điện tử cao cấp càng khan hiếm. Nên mua được đã là điều
khó khăn, mặc dù đó chỉ là những thế hệ máy cũ, lạc hậu. Còn bảo trì, sửa chữa
chúng thì càng khó khăn hơn, do không có phụ tùng thay thế, muốn có phải
nhập từ nước ngòai với giá rất cao, ngân sách địa phương không thể kham nổi.
Trong khi đó các họat động sản xuất-kinh doanh còn yếu, nhất là đầu tư nước
ngòai hầu như chưa có, doanh nghiệp chưa nhiều, giao lưu hàng hóa kém, sức
mua của người dân chẳng bao nhiêu… Các yếu tố đó đã làm cho báo, đài nói
chung, trong đó có TH, không thể có điều kiện để phát triển dịch vụ quảng cáo,
tạo ra nguồn thu, bù lại phần nào các chi phí họat động ngày càng gia tăng của
mình. Trong bối
cảnh đó, sự tồn tại của đài THĐT chẳng khác nào một cái gì xa xí đối với
ngân sách tỉnh, khó có thể duy trì được lâu.
III. Sự ra đời của đài Truyền hình Vĩnh Long (THVL):
Sau khi có quyết định của Quốc hội và Chính Phủ nước Cộâng Hòa Xã
Hội Chủ Nghĩa Việt Nam về việc chia tách tỉnh Cửu Long thành hai tỉnh: Vĩnh
Long và Trà Vinh, ngày 09 tháng 05 năm 1992, UBND tỉnh Vĩnh Long đã ra
quyết định số 57/QT.UBT cho phép thành lập đài PT-TH Vĩnh Long. Trong đó
phát thanh tiếp tục họat động trên cơ sở sẵn có của đài Tiếng nói nhân dân Cửu
Long cũ. Còn truyền hình được xây dựng mới hòan tòan. Từ một phòng nghiệp
vụ đơn lẻ, nay được phát triển thành một đài TH hòan chỉnh, tồn tại song song
với bộ phận phát thanh trong đài PT-TH Vĩnh Long; phát sóng độc lập với đài
THCT. Vì vậy khái niệm đài THVL ở đây được hiểu là một trong hai bộ phận
cấu thành đài PT-TH Vĩnh Long.
3.1 Đài THVL ra đời là do nhu cầu thực tiễn:
Tương tự như sự ra đời của đài THĐT lần thứ nhất, sự ra đời của đài
THVL cũng xuất phát từ những nhu cầu bức xúc của thực tiễn.
22

Hồ Minh Trử

Nâng cao chất lượng và hiệu quả chương trình…

Tỉnh Vĩnh Long có tổng diện tích đất tự nhiên trên 147.500ha. Trong đó
diện tích đất sản xuất nông nghiệp là117.000ha. Bao gồm, diện tích đất trồng
cây hàng năm, chủ yếu là lúa gần 76.000ha; diện tích đất trồng cây lâu năm,
chủ yếu là vườn cây ăn trái 39.500ha. Địa hình manh mún, do bị chia cắt bởi
nhiều sông rạch. Tòan tỉnh có trên 1 triệu người, đại đa số sống ở nông thôn,
với trên 890.000 người, thu nhập chủ yếu từ họat động sản xuất nông nghiệp,
thủy sản. Khi mới chia tách tỉnh kết cấu hạ tầng kinh tế-kỹ thuật và xã hội của
tỉnh còn rất nghèo nàn. Điện, đường, trường, trạm kém phát triển. Đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân còn nhiều khó khăn, thiếu thốn.
Hệ thống báo chí trong tỉnh bao gồm ba cơ quan trụ cột là Báo Vĩnh
Long, trực thuộc Tỉnh ủy; đài PT-TH, trực thuộc UBND tỉnh và Phân xã Vĩnh
Long, thuộc Thông tấn xã Việt Nam. Hệ thống báo chí này cho thấy tỉnh chỉ có
hai cơ quan ngôn luận chính thức là Báo Vĩnh Long, và đài PT-TH, nhưng
cũng kém phát triển. Nhiều năm liền Báo Vĩnh Long chỉ phát hành mỗi tuần 1
số, 4 trang, với số lượng vài ngàn bản, chủ yếu là để phân phối cho các cơ
quan, ban ngành tỉnh, huyện và một số xã. Việc phát hành Báo Vĩnh Long ra
nhân dân còn rất hạn chế. Đài PT-TH chỉ làm phát thanh là chính, với thời
lượng trung bình mỗi ngày 6 giờ, chia thành 3 buổi: sáng, trưa, chiều. Nội dung
chương trình nghèo nàn, kém hấp dẫn và bổ ích. Truyền hình chỉ làm cộng tác
viên cung cấp tin bài cho đài THCT, nhưng chủ yếu vẫn là tin, hiếm khi thực
hiện được phóng sự. Với hệ thống báo chí này, việc tuyên truyền, chỉ đạo thực
hiện các chủ trương, chính sách của tỉnh Đảng bộ về phát triển kinh tế-xã hội
địa phương không thể được thực hiện kịp thời, đầy đủ và sinh động. Chức năng
diễn đàn của nhân dân chưa được các lọai hình báo chí tỉnh phát huy đúng
mức. Nhất là chưa thể góp phần xứng đáng vào việc chăm sóc và nâng cao đời
sống tinh thần của nhân dân.

23