Những nét tương đồng trong nghệ thuật truyện ngắn trước cách mạng của thạch lam và nam cao

  • pdf
  • 68 trang
Kho¸ luËn tèt nghiÖp

Tr­êng §HSP Hµ Néi 2

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
*************

NGUYỄN THỊ HẠT

NHỮNG NÉT TƯƠNG ĐỒNG TRONG
NGHỆ THUẬT TRUYỆN NGẮN
TRƯỚC CÁCH MẠNG CỦA
THẠCH LAM VÀ NAM CAO

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

HÀ NỘI – 2009

NguyÔn ThÞ H¹t

K31D - Ng÷ V¨n

Kho¸ luËn tèt nghiÖp

Tr­êng §HSP Hµ Néi 2

Lêi c¶m ¬n

T«i xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới thầy giáo – Th.S Thành Đức
Bảo Thắng đã tận tình giúp đỡ tôi trong suốt thời gian vừa qua và cũng xin
gửi lời cảm ơn đến các thầy cô trong tổ Văn học Việt Nam – khoa Ngữ văn trường ĐHSP Hà Nội 2 đã tận tình giúp đỡ tôi hoàn thành khoá luận này.

Hµ Néi, th¸ng 5 n¨m 2009
Sinh viªn

Nguyễn Thị Hạt

NguyÔn ThÞ H¹t

K31D - Ng÷ V¨n

Kho¸ luËn tèt nghiÖp

Tr­êng §HSP Hµ Néi 2

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan những kết quả nghiên cứu trong khoá luận này là
thành quả của riêng tôi. Kết quả này không trùng với bất cứ công trình nào
đã được công bố trước đó. Nếu sai tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm.

Hà Nội, tháng 05 năm 2009
Sinh viên

Nguyễn Thị Hạt

NguyÔn ThÞ H¹t

K31D - Ng÷ V¨n

Kho¸ luËn tèt nghiÖp

Tr­êng §HSP Hµ Néi 2
MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Trong quãng đời cầm bút ngắn ngủi của mình, Thạch Lam đã để lại
một khối lượng tác phẩm không mấy đồ sộ. Song bằng tài năng và lòng nhiệt
tình yêu nghề của mình, Thạch Lam đã khẳng định được vị trí và tài năng của
mình trên văn đàn văn học Việt Nam 1930 - 1945. Cùng với Nguyễn Công
Hoan, Nam Cao, Nguyễn Tuân, Thạch Lam đã trở thành một trong bốn cây
bút bậc thầy về truyện ngắn.
Nếu như các tác phẩm của các cây bút đàn anh trong Tự lực văn đoàn
như: Hồn bướm mơ tiên, Gánh hàng hoa, Nửa chừng xuân vừa mới ra đời đã
được đông đảo độc giả nồng nhiệt đón đọc thì các tác phẩm của Thạch Lam
khi ra đời không có cái may mắn ấy. Không chiều theo thị hiếu của độc giả
đương thời, ông hướng tới tìm hiểu, khám phá thế giới tâm hồn tinh tế, trong
sáng, mong manh…của con người bằng tình thương và tấm lòng nhân hậu.
Đó là nguyên nhân cơ bản tạo nên giá trị đặc sắc và làm cho các tác phẩm của
Thạch Lam sống mãi trong lòng bạn đọc.
Bên cạnh Thạch Lam, Nam Cao - cây bút xuất sắc của chủ nghĩa hiện
thực phê phán có nét tương đồng với Thạch Lam ở sự khẳng định mình ấy. Xuất
hiện khi chủ nghĩa hiện thực phê phán đã đạt tới đỉnh cao với các tên tuổi lớn
như: Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan… Có thể nói, Nam
Cao xuất hiện lúc này như đứng trước một thử thách nghiệt ngã tưởng chừng
không thể vượt qua. Nhưng bằng trái tim tâm huyết đối với văn chương, bằng
con mắt quan sát hiện thực sắc xảo và nhất là bằng tài năng nghệ thuật của
mình, Nam Cao đã vượt lên và trở thành cây bút xuất sắc nhất ở chặng cuối
của trào lưu này. Với ý nghĩa đó, các nhà nghiên cứu coi Nam Cao là đại diện

NguyÔn ThÞ H¹t

-1-

K31D - Ng÷ V¨n

Kho¸ luËn tèt nghiÖp

Tr­êng §HSP Hµ Néi 2

xứng đáng nhất, tiêu biểu nhất đã đưa văn học hiện thực phê phán phát triển
đến đỉnh cao.
Đã có không ít nhà nghiên cứu về truyện ngắn Thạch Lam và Nam Cao
trên nhiều phương diện cả nội dung và hình thức và đã đạt được nhiều thành
tựu đáng ghi nhận. Song với ý thức tập làm khoa học, với mong muốn có
được một cái nhìn tương đối đầy đủ và hệ thống về thế giới nghệ thuật của hai
cây bút bậc thầy về truyện ngắn, chúng tôi đã lựa chọn đề tài: “Những nét
tương đồng trong nghệ thuật truyện ngắn trước cách mạng của Thạch Lam
và Nam Cao”.
Một lý do nữa là xuất phát từ thực tế, chúng tôi nhận thấy Thạch Lam
và Nam Cao là hai tác giả được giảng dạy trong chương trình từ THCS,
THPT đến Cao đẳng, Đại học nên việc nghiên cứu “Những nét tương đồng
trong nghệ thuật truyện ngắn trước cách mạng của Thạch Lam và Nam
Cao” sẽ có ý nghĩa thực tiễn quan trọng với công tác giảng dạy của một giáo
viên dạy văn trong tương lai.
2. Lịch sử vấn đề
Văn Thạch Lam chính là tâm hồn, là con người của nhà văn, bởi thế mà
các sáng tác của ông đã làm say mê tâm hồn bạn đọc nhiều thế hệ bất chấp sự
thử thách của thời gian nó vẫn trường tồn mãi mãi. Cũng cùng với thời gian
thì các nhà nghiên cứu cũng đã có những đánh giá xác đáng, toàn diện và sâu
sắc về nghệ thuật truyện ngắn Thạch Lam.
Nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan, người dành nhiều tâm huyết nghiên
cứu về Thạch Lam đã phát biểu: “Thạch Lam có một ngòi bút lặng lẽ và điềm
tĩnh vô cùng, ngòi bút chuyên tả tỉ mỉ những cái rất nhỏ và rất đẹp, những tình
cảm và cảm giác con con nảy nở và biểu lộ ở đủ hạng người mà ông tả một

NguyÔn ThÞ H¹t

-2-

K31D - Ng÷ V¨n

Kho¸ luËn tèt nghiÖp

Tr­êng §HSP Hµ Néi 2

cách rất tinh vi (…). Tỉ mỉ và sâu sắc đó là hai đặc tính của truyện ngắn
Thạch Lam”.[15]
Nguyễn Tuân - người bạn cùng thời với Thạch Lam cho rằng: “Thạch
Lam hay đi vào những cảnh ngộ nghịch trái mà đồng thời cũng là đi sâu vào
những tâm trạng, tâm tình, cảm xúc, cảm giác”.[18]
Cả hai ý kiến trên đều nhấn mạnh đến nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân
vật trong truyện ngắn của Thạch Lam.
Trong cuốn Từ điển văn học, giáo sư Nguyễn Hoành Khung cũng đồng
tình với Vũ Ngọc Phan và Nguyễn Tuân khi ông cho rằng: “Ngòi bút Thạch
Lam thường hướng vào thế giới bên trong của cái tôi với sự phân tích cảm
giác tinh tế”. Ngoài ra giáo sư còn khẳng định: “Thạch Lam sở trường về viết
truyện ngắn (…). Dường như ông là người đầu tiên khai thác chất thơ trong
cuộc sống hàng ngày. (…), nhiều truyện dường như không có cốt truyện song
vẫn có sức hấp dẫn riêng (…) Thạch Lam góp phần nâng cao truyện ngắn
Việt Nam lên một bước”. [8]
Nhà nghiên cứu Phan Cự Đệ đã có lần nhận xét nghệ thuật truyện ngắn
Thạch Lam như sau: “Thạch Lam ít sử dụng những cốt truyện giàu hành động
và kịch tính (…). Ngòi bút Thạch Lam đi sâu vào thế giới bên trong của tâm
hồn con người đặc biệt là thế giới của ấn tượng và cảm giác”.[3] Sau này
Nguyễn Đăng Mạnh cũng khẳng định: “Thạch Lam sở trường về truyện ngắn
(…). Ông đã sáng tạo ra lối truyện ngắn riêng, loại truyện tâm tình không có
cốt truyện đặc biệt. Ông chú trọng đi vào nội tâm nhân vật với tình cảm, cảm
xúc, cảm giác mơ hồ mong manh”.[14]
Như vậy, việc đi sâu khám phá về nghệ thuật truyện ngắn Thach Lam
đã diễn ra và dường như chưa kết thúc. Nó vẫn đề tài hấp dẫn bút mực của
nhiều nhà nghiên cứu .

NguyÔn ThÞ H¹t

-3-

K31D - Ng÷ V¨n

Kho¸ luËn tèt nghiÖp

Tr­êng §HSP Hµ Néi 2

Bên cạnh Thạch Lam cũng như một số nhà văn khác thì Nam Cao, con
người và sáng tác của ông cũng luôn là đề tài hấp dẫn, tập chung bút mực của
các nhà nghiên cứu. Họ không chỉ tìm hiểu những vấn đề về cuộc đời và thời
đại mà còn khai thác giá trị nghệ thuật truyện ngắn của ông từ nhiều góc độ.
Nguyễn Hoành Khung trong cuốn Từ điển văn học đã viết: “Nghệ thuật
viết truyện của Nam Cao có nhiều đặc sắc độc đáo và đa dạng, tác phẩm của
ông vừa chân thực, vừa ý vị triết lý, một ý nghĩa khái quát sâu xa”.[8]
Phong Lê trong cuốn Nam Cao nhìn cuối thế kỷ khẳng định: “Nam
Cao một nhà văn có văn… văn Nam Cao. Ngôn ngữ Nam Cao cũng như
Nguyễn Tuân, Thạch Lam, Vũ Trọng Phụng, Tô Hoài… Quả là đối tượng còn
nhiều khám phá. Để nói về cái giàu cái hay của tiếng Việt và để nói, trong tay
một nhà văn tài năng, tiếng Việt đã phát huy được sức mạnh và ưu thế như thế
nào. Để thấy chỉ sau vài chục năm (…), văn quốc ngữ đã đạt tới trình độ Nam
Cao, và từ Nam Cao đến nay, sau hơn nửa thế kỷ bất chấp mọi biến động xã
hội, ngôn ngữ Nam Cao vẫn cập được bến bờ thời sự”. Nhận xét đó đã nhấn
mạnh đến khả năng cũng như tài năng sử dụng ngôn ngữ của Nam Cao.[14]
Nghiên cứu về phương diện nghệ thuật truyện ngắn Nam Cao cũng
phải kể đến ý kiến của Nguyên Hồng, ông viết: “Nghệ thuật vững chãi và sâu
sắc của Nam Cao gây thêm lòng tin ở khả năng tiềm tàng thật tươi tốt và ở
sức phát triển của dòng văn học hiện thực đi vào đây, chiến đấu ở đây có bao
nhiêu cây bút chật vật, gian khổ và cố gắng không ngừng, ngòi bút của Nam
Cao đã đem đến một thế giới thật đặc sắc. Có lẽ trong văn học Việt Nam, với
ngòi bút của Nam Cao, ta bắt đầu thấy sự sống thật trong truyện ngắn”. Đây là
nhận xét về ngôn ngữ và nghệ thuật miêu tả thế giới nội tâm nhân vật trong
truyện ngắn của Nam Cao.
Điểm lại lịch sử vấn đề chúng tôi nhận thấy đã có nhiều bài nghiên cứu
của các tác giả bàn về nghệ thuật truyện ngắn của Thạch Lam và Nam Cao.

NguyÔn ThÞ H¹t

-4-

K31D - Ng÷ V¨n

Kho¸ luËn tèt nghiÖp

Tr­êng §HSP Hµ Néi 2

Các bài viết ít nhiều đã nói đến nét tương đồng trong nghệ thuật truyện ngắn
trước cách mạng của Thạch Lam và Nam Cao hoặc thông qua những bài viết
ấy ta nhận thấy nét tương đồng trong nghệ thuật truyện ngắn của hai nhà văn
này. Tuy nhiên, gần như cho đến nay chưa có công trình nghiên cứu nào tìm
hiểu về “Những nét tương đồng trong nghệ thuật truyện ngắn trước cách
mạng của Thạch Lam và Nam Cao”. Trên cơ sở đó khoá luận này chúng tôi
xin bước đầu đi tìm hiểu vấn đề trên một cách có hệ thống.
3. Mục đích của khóa luận
Khóa luận chú trọng làm nổi bật nét tương đồng trong nghệ thuật truyện
ngắn trước cách mạng của Thạch Lam và Nam Cao. Từ đó thấy được sự kế
thừa, sáng tạo và phát triển theo hướng hiện đại hóa và quy luật phát triển của
văn học.
4. NhiÖm vô nghiên cứu
Tìm ra những nét tương đồng trong nghệ thuật truyện ngắn trước cách
mạng của Thạch Lam và Nam Cao.
5. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Những yếu tố tương đồng trong nghệ thuật
truyện ngắn của Thạch Lam và Nam Cao.
- Phạm vi nghiên cứu:
Về tư liệu: để giải quyết vấn đề mà đề tài đặt ra chúng tôi giới hạn phạm
vi nghiên cứu là những tác phẩm tiêu biểu của Thạch Lam và Nam Cao trước
cách mạng.
Trong quá trình phân tích tìm và tìm hiểu, để có sự đánh giá thỏa đáng
và toàn diện, chúng tôi cũng có sự so sánh, đối chiếu giữa các tác phẩm của
hai ông nói chung và một số tác phẩm của các nhà văn khác.
6. Phương pháp nghiên cứu

NguyÔn ThÞ H¹t

-5-

K31D - Ng÷ V¨n

Kho¸ luËn tèt nghiÖp

Tr­êng §HSP Hµ Néi 2

Với đề tài này, chúng tôi sử dụng các phương pháp sau:
Phương pháp phân tích văn học
Phương pháp đối chiếu so sánh
Phương pháp tổng hợp.
7. Đóng góp của khoá luận
- Về mặt lý luận:
Khoá luận sẽ rút ra những kết luận cơ bản về nét tương đồng trong
nghệ thuật truyện ngắn của Thạch Lam và Nam Cao.
Nâng cao trình độ hiểu biết về nghệ thuật truyện ngắn của Thạch Lam
và Nam Cao.
- Về mặt thực tiễn:
Đề tài nghiên cứu sẽ là tư liệu cần thiết để phục vụ cho công tác giảng
dạy sau này ở nhà trường phổ thông.
8. Cấu trúc của khóa luận
Khóa luận gồm 3 phần:
Mở đầu.
Nội dung: gồm 2 chương
Chương 1: Những vấn đề chung.
Chương 2: Những nét tương đồng trong nghệ thuật truyện ngắn
trước cách mạng của Thạch Lam và Nam Cao.
. Kết luận

NguyÔn ThÞ H¹t

-6-

K31D - Ng÷ V¨n

Kho¸ luËn tèt nghiÖp

Tr­êng §HSP Hµ Néi 2
NỘI DUNG

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Truyện ngắn và các yếu tố nghệ thuật truyện ngắn
1.1.1. Truyện ngắn
1.1.1.1. Kh¸i niệm
Theo “Từ điển thuật ngữ văn học”- NXB Giáo dục, Lê Bá Hán, Trần
Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi chủ biên, thể truyện ngắn được định nghĩa như
sau: Truyện ngắn là tác phẩm tự sự cỡ nhỏ. Nội dung của thể loại truyện ngắn
bao trùm hầu hết các phương diện của đời sống: đời tư, thế sự hoặc sử thi,
nhưng cái độc đáo của nó là ngắn. Truyện ngắn được viết ra để tiếp thu liền
một mạch, đọc một hơi không nghỉ”.
1.1.1.2. §Æc tr­ng
Đặc trưng của truyện ngắn:
+ TruyÖn ng¾n thường gắn với một số biến cố hoặc một vài biến cố
xoay quanh cuộc đời nhân vật.
+ Thể hiện một khía cạnh nào đó trong xã hội.
+ BiÓu hiÖn mét mÆt nµo ®ã cña tÝnh c¸ch nh©n vËt.
Nhưng cái chính của truyện ngắn không phải là hệ thống sự kiện, mà ở
cái nhìn tự sự đối với cuộc đời. Truyện ngắn trung đại cũng là truyện ngắn
nhưng cũng gần với truyện vừa. Truyện ngắn hiện đại khác hẳn. Đó là một
kiểu tư duy khá mới, vì vậy nói chung, truyện ngắn đích thị xuất hiện muộn
trong lịch sử văn học.
Ở một số nước trên thế giới, truyện ngắn gắn liền với báo chí: khuôn
khổ của báo chí không cho phép dài. Truyện ngắn nói chung không phải vì
“truyện” của nó “ngắn” mà vì cách nắm bắt cuộc sống của thể loại.

NguyÔn ThÞ H¹t

-7-

K31D - Ng÷ V¨n

Kho¸ luËn tèt nghiÖp

Tr­êng §HSP Hµ Néi 2

Tác giả truyện ngắn thường hướng tới khắc hoạ một hiện tượng, phát hiện
một nét bản chất trong quan hệ nhân sinh hay đời sống nội tâm con người. Chính
vì vậy truyện ngắn thường rất ít nhân vật, ít sự kiện phức tạp.
1.1.1.3. Qu¸ tr×nh ph¸t triÓn
Thể loại truyện ngắn trong lịch sử văn học Việt Nam chỉ thực sự định
hình và phát triển trong thế kỉ XX. Đây là thời kỳ cùng một lúc các nhà văn
viết truyện ngắn có thể tung hoành trên các loại văn tự: chữ Hán, chữ Nôm,
chữ Quốc Ngữ...
Truyện ngắn Việt Nam phát triển qua các giai đoạn:
Giai đoạn từ 1900 – 1930 (ba thập niên đầu)
Đây là giai đoạn văn học đang chuyển hướng theo xu hướng hiện đại
hoá. Trong thời kỳ này, truyện ngắn được hình thành một cách rõ rệt và tách
dần thi pháp trung đại nh­ truyện ngắn của Nguyễn Ái Quốc, Phan Châu
Trinh, Phạm Duy Tốn, Nguyễn Công Hoan...
Cảm hứng của truyện ngắn thời kì này hướng tới phê phán, đả kích xã
hội: Phan Châu Trinh có “Người nông dân”, Phan Bội Châu có “Nhà sư ăn
rau”, “Sống trở lại”, Nguyễn Ái Quốc có “Con rùa”, “Những trò lố hay là
Vazen và Phan Bội Châu”, “Vi hành”,...
Về nghệ thuật, truyện ngắn phát triển mạnh mẽ, trở thành một thể loại
mới có sự thay đổi mới về chủ đề truyện ngắn: Trước kia là những câu chuyện
về nhân vật lịch sử, những câu danh ngôn thì nay xu hướng vào khám phá
phản ánh hiện thực xã hội trên nhiều phương diện; Truyện ngắn có sự biến
đổi về chữ viết, linh hoạt trong cách sử dụng ngôn từ, ngôn ngữ hiện đại gần
gũi với ngôn từ đời thường của người nông dân. Tuy nhiên có một số truyện
ngắn viết theo lối văn học biền ngẫu.
Giai đoạn 1930 - 1945

NguyÔn ThÞ H¹t

-8-

K31D - Ng÷ V¨n

Kho¸ luËn tèt nghiÖp

Tr­êng §HSP Hµ Néi 2

Thời kì này truyện ngắn phát triển nổi bật với nhiều thành tựu rực rỡ,
cùng với tiểu thuyết nó đưa văn xuôi bước vào thời kì hiện đại. Thời kì này
xuất hiện những cây bút bậc thầy về truyện ngắn.
Truyện ngắn chủ yếu viết bằng chữ quốc ngữ rất đa dạng, phong phú
trong cách biểu hiện, độc đáo sinh động trong ngôn ngữ. Nó đã tạo nên phong
cách độc đáo của truyện ngắn như Nguyễn Công Hoan là cây bút truyện ngắn
trào phúng được coi là vô tiền khoáng hậu, Nam Cao cây bút hiện thực tâm lí.
Nội dung tư tưởng cuả truyện ngắn thời kì này hướng tới xã hội và đặt ra
những vấn đề lớn trong x· héi. Đặc biệt truyện ngắn thời kì này hướng tới
miêu tả sâu sắc đời sống nội tâm con người.
Truyện ngắn thời kì này đạt đến độ mẫu mực, cổ điển, phản ánh nhiều
mặt của đời sống xã hội. Kết cấu đa dạng, đặc biệt là kết cấu tâm lý, ngôn ngữ
phong phú sinh động, làm giàu cho ngôn từ chữ viết: diễn đạt được mọi biến
thái tinh vi nhất trong đời sống con người.
Trong quá trình phát triển, truyện ngắn đã phát triển thành hai dòng đó
là dòng truyện ngắn trữ tình và dòng truyện ngắn hiện thực.
Thứ nhất là dòng truyện ngắn trữ tình:
Nói tới dòng truyện ngắn trữ tình 1930 - 1945 là nói đến những cây bút
của truyện ngắn hiện thực như Thạch Lam, Thanh Tịnh, Hồ Dzếnh... Đã có ý
kiến cho rằng: “Ta không nên đối lập truyện ngắn trữ tình và truyện ngắn hiện
thực”, không nên đối lập như sự đối lập của hai ý thức hệ, hai thế giới quan,
hai lập trường giai cấp. Vì đó là hai khuynh hướng thẩm mĩ khác nhau, đáp
ứng yêu cầu khác nhau của đời sống tâm hồn. Một nhà văn trong một thời
điểm có thể sáng tác theo hai khuynh hướng lãng mạn và hiện thực như
Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Tuân.

NguyÔn ThÞ H¹t

-9-

K31D - Ng÷ V¨n

Kho¸ luËn tèt nghiÖp

Tr­êng §HSP Hµ Néi 2

Song nếu như Nguyễn Công Hoan và Vũ Trọng Phụng, chỉ thành công
trong truyện ngắn hiện thực thì Thạch Lam, Thanh Tịnh, Hồ Dzếnh lại thành
công trong cả hai khuynh hướng hiện thực và trữ tình.
Thạch Lam khẳng định tính chất đằm thắm trong sáng tác: Truyện ngắn
nào hay đều có chất thơ, bài thơ nào hay đều có cốt truyện. Người ta khẳng
định trong thế giới nghệ thuật của của ba cây bút Thạch Lam, Thanh Tịnh, Hồ
Dzếnh, có sự khác nhau: Thạch Lam hướng ngòi bút của mình vào những
người nghèo khổ, bé nhỏ ở cùng quê nào đó gần xe lửa. Hồ Dzếnh chỉ viết về
những chuyện của bản thân, gia đình, Thanh Tịnh viết về tình cảm gần gũi
trong gia đình. Song sở trường chung của họ có nét tương đồng: Diễn tả rất
đạt đời sống nội tâm, tâm hồn nhân vật với những cảm giác hết sức tinh vi,
những ước mơ hết sức nhỏ bé nhưng hiền lành của những con người bé nhỏ ở
nông thôn.
Thứ hai là dòng truyện ngắn hiện thực:
Nói đến dòng truyện ngắn này là nói đến dòng truyện ngắn của các nhà
văn theo khuynh hướng hiện thực phê phán. Dòng truyện ngắn này phát triển
mạnh mẽ do các nguyên nhân sau: Do quan niệm của nhà văn khi hướng tới
phản ánh hiện thực. Do đặc trưng về thể loại: ngắn gọn, cỡ nhỏ nên phản ánh
được một cách nhanh gọn kịp thời, phản ánh nhanh đáp ứng được tính thời sự.
Các tác giả của dòng văn học này tiểu biểu như Nguyễn Công Hoan có
hàng trăm truyện ngắn khác nhau. Ông là người khai phá mở đường không
chỉ cho dòng văn học hiện thực mà còn cho cả truyện ngắn hiện đại Việt
Nam. Tiếp đó là hàng loạt các tên tuổi như Vũ Trọng Phụng, Tô Hoài, Kim
Lân và đặc biệt là Nam Cao. Nam Cao là người đến sau nhưng lại là người
đặc biệt nhất, ông đã nâng truyện ngắn Việt Nam lên tầm cao mới.

NguyÔn ThÞ H¹t

- 10 -

K31D - Ng÷ V¨n

Kho¸ luËn tèt nghiÖp

Tr­êng §HSP Hµ Néi 2

Từ sau 1945 đến nay truyện ngắn Việt Nam tiếp tục phát triển và có
những thành tựu đáng kể nhưng trong phạm vi của khoá luận chúng tôi chỉ đi
tìm hiểu qua hai giai đoạn trên.
1.1.2. Các yếu tố nghệ thuật cña truyện ngắn.
1.1.2.1. Cốt truyện và tình huống truyện.
Cốt truyện là hệ thống sự kiện cụ thể, được tổ chức theo yêu cầu tư tưởng
và nghệ thuật nhất định, tạo thành bộ phận cơ bản, quan trọng nhất trong hình
thức động của tác phẩm văn học thuộc các loại tự sự và kịch. (Từ điển thuật
ngữ văn học, Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên),
Nhà xuất bản Giáo dục ).
Cốt truyện không phải là yếu tố tất yếu của mọi loại tác phẩm văn học.
Trong các loại tác phẩm trữ tình, cốt truyện (với ý nghĩa chặt chẽ nhất của
khái niệm này) không tồn tại v× loại tác phẩm tr÷ t×nh, tác giả biểu hiện sự
diễn biến của tình cảm, tâm trạng.
Cèt truyÖn cña truyÖn ng¾n th­êng cã hai ph­¬ng diÖn g¾n bã h÷u c¬
víi nhau: một mặt cốt truyện bộc lộ nhân vật, nhờ cốt truyện mà nhà văn thể
hiện sự tác động qua lại giữa các tính cách nhân vật; mặt khác, cốt truyện là
phương tiện để nhà văn tái hiện các xung đột xã hội. Cốt truyện vừa góp phần
bộc lộ có hiệu quả đặc điểm mỗi tính cách, tổ chức hệ thống tính cách, lại vừa
trình bày hệ thống sự kiện phản ánh hiện thực xung đột xã hội, có sức mạnh
lôi cuốn và hấp dẫn người đọc.
.

Tình huống truyện là vấn đề chủ yếu của nghệ thuật viết truyện ngắn.

Theo Nguyễn Đăng Mạnh: “Tình huống truyện như một tứ thơ…nó giống
như một thứ nước rửa ảnh sẽ làm nổi hình, nổi sắc nhân vật, làm nổi bật vấn
đề tư tưởng của tác phẩm”.
Ví dụ như tình huống nhặt vợ trong Vợ nhặt của Kim Lân, tình huống
nhầm lẫn của đôi trai gái người Pháp trong Vi hành của Nguyễn Aí Quốc….

NguyÔn ThÞ H¹t

- 11 -

K31D - Ng÷ V¨n

Kho¸ luËn tèt nghiÖp

Tr­êng §HSP Hµ Néi 2

1.1.2.2. Nhân vật
Trong văn học có rất nhiều quan niệm khác nhau về nhân vật:
Theo Từ điển thuật ngữ văn học: Nhân vật văn học là những con người cụ
thể được miêu tả trong tác phẩm văn học. Nhân vật văn học có thể là tên riêng
(Tấm, Cám, chị Dậu, anh Pha, Hộ,...),cũng có thể không có tên riêng như
thằng bán tơ, một mụ nào trong Truyện Kiều của Nguyễn Du. Trong truyện cổ
tích, ngụ ngôn, đồng thoại, thần được đưa ra như một ẩn dụ để nói chuyện con
người. Khái niệm nhân vật có khi đươc sử dụng như một ẩn dụ, không chỉ con
người cụ thể nào, mà chỉ một hiện tượng nổi bật nào đó trong tác phẩm.
Từ điển văn học định nghĩa về nhân vật như sau: Nhân vật là yếu tố cơ
bản nhất trong tác phẩm văn học, là tiêu điểm để bộc lộ chủ đề và đến lượt
mình nó lại được các yếu tố có tính chất hình thức của tác phẩm tập trung
khắc hoạ. Nhân vật do đó là nơi tâp trung giá trị tư tưởng nghệ thuậ của tác
phẩm.[8]
Theo Giáo sư Phùng Minh Hiến: Nhân vật là đối tượng được miêu tả tâp
trung đến mức có sức sống riêng nào đó bên trong tuỳ theo nhiệm vụ nghệ
thuật mà tác giả trao cho nó.
Như vậy, tất các quan niệm trên giúp chúng ta hiểu rõ thế nào là nhân
vật văn học và vai trò của nhân vật trong tác phẩm văn chương. trong truyện
ngắn, nhân vật được xem như một yếu tố không thể thiếu, là yếu tố quan trọng
nhất của truyện ngắn.
1.1.2.3. Ngôn ngữ nghệ thuật
Theo Từ điển thuật ngữ văn học: Ngôn ngữ là công cụ, là chất liệu cơ bản
của văn học, vì vậy văn học được gọi là loại hình nghệ thuật ngôn từ.
Tính chính xác, tính hàm xúc, tính đa nghĩa, tính tạo hình và tính biểu cảm
là những thuộc tính chung của ngôn ngữ văn học. Các đặc tính ấy biểu hiện
qua các loại văn với những sắc thái khác nhau. Ngôn ngữ của tác phẩm trữ

NguyÔn ThÞ H¹t

- 12 -

K31D - Ng÷ V¨n

Kho¸ luËn tèt nghiÖp

Tr­êng §HSP Hµ Néi 2

tình là ngôn ngữ được tổ chức trên cơ sở nhịp điệu, hết sức cô đọng hàm súc
và đặc biệt gợi cảm. Ngôn ngữ của tác phẩm tự sự trong đó có truyện ngắn là
ngôn ngữ của nhiều loại tính cách (nhân vật) và nó có một thứ ngôn ngữ nữa
là ngôn ngữ của người kể chuyện giữ vai trò quyết định đối với toàn bộ cấu
trúc ngôn ngữ của tác phẩm.
Như vậy đến đây ta có thể hiểu ngôn ngữ nghệ thuật nói chung và ngôn
ngữ nghệ thuật truyện ngắn nói riêng. Qua đó sẽ góp phần giúp chúng ta đi
tìm hiểu những nét tương đồng trong nghệ thuật truyện ngắn trước cách mạng
của Thạch Lam và Nam Cao.
1.2. Những yếu tố tác động đến tư duy nghệ thuật của Thạch Lam và
Nam Cao
Trong cuộc sống nói chung, trong văn chương nói riêng để có một cái
nhìn toàn vẹn, sâu sắc và chính xác nhất về một đối tượng, một vấn đề, một sự
việc…chúng ta cần xem xét chúng trên nhiều phương diện. Vì vậy khi nghiên
cứu “Những nét tương đồng trong nghệ thuật truyện ngắn trước cách mạng
của Thạch Lam và Nam Cao” chúng ta cùng đi vào tìm hiểu các yếu tố tác
động đến tư duy nghệ thuật của Thạch Lam và Nam Cao. Hai yếu tố luôn
được giới nghiên cứu đưa ra xem xét đó là hoàn cảnh xã hội và hoàn cảnh
riêng.
1.2.1. Hoàn cảnh xã hội
Mỗi người sống trong một môi trường xã hội nhất định, không thể
không chịu sự tác động của môi trường. Trong hoàn cảnh ấy: “Người ta bao
giờ cũng chịu rất sâu xa ảnh hưởng của hoàn cảnh và trước hết là được tạo
nên để sống với hoàn cảnh” (Thạch Lam). Vì vậy để tìm hiểu về nghệ thuật
truyện ngắn Thạch Lam và Nam Cao trước hết chúng ta phải biết được hoàn
cảnh xã hội có tác động đến tư duy nghệ thuật của Thạch Lam và Nam Cao.

NguyÔn ThÞ H¹t

- 13 -

K31D - Ng÷ V¨n

Kho¸ luËn tèt nghiÖp

Tr­êng §HSP Hµ Néi 2

Xã hội Việt Nam trước cách mạng tháng tám là xã hội thực dân nửa
phong kiến, kinh tế lạc hậu, sản xuất trì trệ, xã hội rối ren điên đảo, đời sống
của mọi tầng lớp nhân dân vô cùng cực khổ. Đặc biệt là giai đoạn 1930 - 1945
trước phong trào cách mạng vô sản vừa nhóm lên. Bọn đế quốc thực dân đã
sử dụng mọi thủ đoạn để đối phó, đàn áp các phong trào đó trên mọi mặt:
Quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa…
Về kinh tế chúng ra sức bóc lột nhân dân ta và vơ vét của cải nhân dân
ta rơi vào tình cảnh “một cổ hai tròng” luôn trong ngoi ngóp đói nghèo đến
cùng cực cả về vật chất lẫn tinh thần.
Về chính trị và quân sự chúng dìm các cuộc khởi nghĩa của ta trong
biển máu, bằng các cuộc “ khủng bố trắng”.
Về văn hóa chúng thực hiện chính sách ngu dân: không cho nhân dân ta
tiếp thu với những nền văn hóa tiến bộ, chúng lập nhà tù nhiều hơn trường
học. Chúng đầu độc các tầng lớp học sinh, sinh viên bằng những học thuyết
của chủ nghĩa siêu hình, chủ nghĩa biện chứng, chủ nghĩa hoài nghi…hay lôi
kéo thanh niên vào sòng bạc, ma túy, mại dâm…nhằm tiêu diệt tinh thần yêu
nước, ý thức tự tôn dân tộc.
Đặc biệt là năm 1940, khi phát xít Nhật tấn công Đông Dương thực dân
Pháp càng bóp nghẹt khai thác nhân dân Việt Nam chúng bắt tay cấu kết với
nhau để hai bên cùng có lợi làm cho đời sống của nhân dân đã cùng cực, điêu
đứng nay lại càng rơi vào thảm cảnh hơn. Một xã hội Tây - Tàu lẫn lộn, phải trái, trắng - đen cũng bị đảo lộn.
Chính hoàn cảnh xã hội ấy đã tác động sâu sắc đến tầng lớp văn nghệ
sĩ, đến tư duy nghệ thuật của các nhà văn. Trong thời kỳ này có sự xuất hiện
và pha trộn hai khuynh hướng: khuynh hướng lãng mạn và khuynh hướng
hiện thực. Tuy nhiên đây không phải là sự “phát triển vội vã” từ chủ nghĩa
lãng mạn sang chủ nghĩa hiện thực như một vài nhận định. Mà hai dòng văn

NguyÔn ThÞ H¹t

- 14 -

K31D - Ng÷ V¨n

Kho¸ luËn tèt nghiÖp

Tr­êng §HSP Hµ Néi 2

học này ở nước ta cùng ra đời và phát triển song song. Tiêu biểu cho khuynh
hướng lãng mạn chủ nghĩa là nhóm Tự lực văn đoàn và các tác giả: Xuân
Diệu, Thế Lữ, Nguyễn Bính…. Tiêu biểu cho dòng văn học hiện thực chủ
nghĩa mà ở giai đoạn 1930 - 1940 là hiện thực phê phán với các tác giả: Ngô
Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng và đỉnh cao là Ngô Tất Tố.
Tự lực văn đoàn được sáng lập năm 1933 và phát triển trong vòng
mười năm (1933-1942). Đây là tổ chức có tôn chỉ, mục đích riêng gồm mười
điểm nhưng cốt lõi là bốn vấn đề sau: Chủ trương viết theo lối văn chương
giản dị, đặc tính cách An Nam; chủ trương học theo phương Tây; chỉ ra tư
tưởng của Khổng giáo đã lạc hậu, lỗi thời, đề cao con người cá nhân, tình yêu
hôn nhân tự do, chống lễ giáo phong kiến. Như vậy, từ tôn chỉ, mục đích cho
thấy Tự lực văn đoàn đã chủ trương đổi mới văn chương cả về nội dung và
hình thức nghệ thuật.
Là thành viên của nhóm Tự lực văn đoàn nhưng Thạch Lam không
theo cái lối đã đinh sẵn ấy mà ông tìm hướng đi cho riêng mình. Hướng đi ấy
có được là do hoàn cảnh xã hội trên tác động đến tư duy nghệ thuật của Thạch
Lam. Sự tác động này hoàn toàn khác với các nhà văn trong Tự lưc văn đoàn.
Nó hình thành trong tư duy nghệ thuật Thạch Lam một hướng viết mới - hiện
thực trữ tình.
Còn đối với Nam Cao, nhà văn xuất sắc của trào lưu hiện thực phê
phán 1930 - 1945, bước vào nghề khi xã hội thực dân phong kiến thối nát,
ngột ngạt, đen tối như đã nói ở trên có tác động lớn đến tư duy nghệ thuật của
nhà văn, Nam Cao dần đoạn tuyệt với khuynh hướng lãng mạn để đến với
khuynh hướng hiện thực, làm nên Nam Cao một nhà văn hiện thực phê phán
Việt Nam.
1.2.2. Hoàn cảnh sống của Thạch Lam và Nam Cao
1.2.2.1. Hoàn cảnh sống của Thạch Lam

NguyÔn ThÞ H¹t

- 15 -

K31D - Ng÷ V¨n

Kho¸ luËn tèt nghiÖp

Tr­êng §HSP Hµ Néi 2

Trong ba anh em (Nhất Linh, Hoàng Đạo, Thạch Lam) và cả văn phái
Tự lực văn đoàn nói chung, Thạch Lam là người sống cuộc đời ngắn ngủi
nhất, tác phẩm bán ra chậm nhất nhưng lại chính là người tài hoa nhất và viết
hay nhất. Có được điều này chính là do quan điểm viết truyện ngắn chi phối.
Thạch Lam sinh ngày 7 tháng 7 năm 1910 (tức ngày 1 tháng 6 năm
Canh Tuất) tại ấp Thái Hà, Hà Nội. Hồi nhỏ ông có tên là Sáu. Khi bắt đầu đi
học tại trường huyện Cẩm Giàng, gia đình làm khai sinh mới đặt tên là
Nguyễn Tường Vinh. Đến 15 tuổi vì cần tăng thêm tuổi để đi học vượt cấp,
ông làm lại giấy khai sinh, đổi tên thành Nguyễn Tường Lân và giữ tên này
cho đến lúc chết.
Thạch Lam mồ côi cha từ năm lên bảy tuổi. Cảnh nhà khó khăn, bà mẹ
phải tần tảo nuôi các con ăn học. Các anh của Thạch Lam đi Hà Nội thỉnh
thoảng mới về. Thạch Lam và chị Thế ở nhà trông coi hàng tạp hóa cho mẹ.
Những kỉ niệm thời thơ ấu đã đi theo ông suốt cuộc đời sáng tác. Chính
những kỉ niệm êm đềm, trong sáng nơi phố huyện nhỏ đã nuôi dưỡng tâm hồn
lãng mạn của Thạch Lam và có ảnh hưởng sâu sắc đến tư duy nghệ thuật của
Thạch Lam và đã in dấu đậm nét trong những sáng tác của ông.
15 tuổi Thạch Lam đã khai tăng bốn tuổi để được đi học bậc Thành
chung, đỗ trường Cao đẳng tiểu học trường Canh nông, nhưng sau một năm
ông xin thôi học trường trung học Albert sarraut để thi tú tài. Sau khi đỗ tú tài
phần thứ nhất ông thôi học ở trường về học ở nhà với mấy người anh.Sau đó,
ông theo người anh Hoàng Đạo vào Sài Gòn, ở với anh thứ hai là Nguyễn
Tường Cẩm đang làm tại sở canh nông. Được khoảng hai năm, Thạch Lam
trở ra Hà Nội sống với gia đình để chuẩn bị sang Pháp du học thì Thạch Lam
bỏ tú tài phần hai, mặc những lời trách cứ của các anh.
Thạch Lam lấy vợ năm 25 tuổi. Vợ ông là bà Nguyễn Thị Sáu người
tỉnh Ninh Bình. Thạch Lam lấy vợ hoàn toàn vì tình yêu. Vợ ông là người

NguyÔn ThÞ H¹t

- 16 -

K31D - Ng÷ V¨n

Kho¸ luËn tèt nghiÖp

Tr­êng §HSP Hµ Néi 2

hiền lành, đảm đang. Bà luôn tạo điều kiện thuận lợi cho công việc sáng tác
của Thạch Lam.
Thạch Lam là người “thông minh nhất và cũng lãng mạn nhất nhà”
(Thế Uyên). Trong cuộc sống, Thạch Lam là một con người khiêm nhường,
bình dị. Ông không thích cuộc sống ồn ào, náo nhiệt ở đô thị, mà sống ở một
ngôi nhà tranh vách gỗ bên hồ Tây. Ngôi nhà của Thạch Lam nhỏ nhắn, đơn
sơ nhưng sạch sẽ và sáng sủa. Đây là nơi bạn bè ông đến nói chuyện văn
chương. Đây cũng là nơi tư duy nghệ thuật trưởng thành và cũng là nơi rất
nhiều tác phẩm của ông đã ra đời.
Chính những yếu tố của hoàn cảnh riêng, của chính cuộc đời và con
người đã tác động lớn đến sự hình thành tư duy nghệ thuật của Thạch Lam.
Thạch Lam có tâm hồn lãng mạn, yêu cái đẹp, hướng tới cái đẹp, “chắt chiu cái
đẹp” và sáng tác của ông chính là “sự tìm kiếm cái đẹp đã bị đánh mất”. Thạch
Lam cho rằng một nhà văn thực sự có tài phải là người có thể cảm nhận được
vẻ đẹp man mác khắp vũ trụ. Ông viết “Công việc của nhà văn là phát biểu cái
đẹp ở chính chỗ mà không ai ngờ tới, tìm cái đẹp kín đáo và che lấp của sự vật,
ông cho người đọc một bài học trông nhìn và thưởng thức”. Đây chính là quan
điểm nghệ thuật khi viết văn của nhà văn.
1.2.2.2. Hoàn cảnh sống của Nam Cao
Nam Cao tên thật là Trần Hữu Tri, sinh ngày 29 tháng 10 năm 1917 tại
làng Đại Hoàng, tổng Cao Đà, phủ Lý Nhân, tỉnh Hà Nam. Nay là xã Hòa
Hậu, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam. Sinh ra trong một gia đình trung nông, ở
một vùng chiêm chũng giữa đồng bằng Bắc Bộ. Đây là miền quê của sự
nghèo đói quanh năm, đời sống người dân khổ cực, dân cư thưa thớt vắng vẻ,
tiêu điều “hẻo lánh tựa bãi tha ma”. Và gia đình Nam Cao cũng nghèo đói cái nghèo đói kéo dài đến ba đời. Do đó cái đầu tiên đập vào mắt ông chính là
những khó khăn gian truân vất vả của gia đình. Vì cảnh nhà đông con (ba

NguyÔn ThÞ H¹t

- 17 -

K31D - Ng÷ V¨n