Phân tầng xã hội và phân tầng xã hội ở việt nam

  • pdf
  • 13 trang
I.

VẤN ĐỀ PHÂN TẦNG XÃ HỘI VÀ NGHIÊN CỨU PHÂN TẦNG XÃ

HỘI Ở VIỆT NAM
1. Khái niệm phân tầng xã hội:
Có nhiều định nghĩa về phân tầng xã hội. Chẳng hạn, GS.TS Trịnh Duy Luân,
Viện Xã hội học cho rằng: Phân tầng xã hội là “sự xếp hạng một cách ổn định các vị
trí trong xã hội xét từ góc độ quyền lực, uy tín hoặc các đặc quyền, đặc lợi không
ngang nhau”. Trong sự phân tầng xã hội có các “tầng” (stratum), mỗi tầng là một
tập hợp người (cá nhân), giống nhau về địa vị, bao gồm địa vị kinh tế (tài sản, thu
nhập), địa vị chính trị (quyền lực), hay địa vị xã hội (như uy tín), từ đó mà họ có
được những cơ hội thăng tiến, sự phong thưởng và những thứ bậc nhất định trong
xã hội. Sự phân tầng xã hội thường được mô tả dưới dạng các “tháp phân tầng” với
những hình dáng khác nhau, tùy thuộc vào đặc trưng của các loại xã hội.
Khái niệm phân tầng xã hội vừa nêu trên, thực chất chỉ ở bình diện lý thuyết, vĩ
mô. Để đưa vào phân tích những vấn đề thực tế, một cách thực nghiệm, cần phải
tìm ra các phương pháp và các chỉ báo cần thiết để thực hiện việc đo lường này.
Nhìn chung, người ta đều thừa nhận rằng, việc đo lường các khác biệt về kinh tế (tài
sản và thu nhập) dễ hơn nhiều so với 2 lĩnh vực còn lại trong định nghĩa về phân
tầng xã hội. Việc xác định những khác biệt về kinh tế, vấn đề đo lường chính xác
các khác biệt về tài sản và thu nhập cũng không dễ dàng, nhất là trong các xã hội
đang phát triển. Vì vậy, có thể là hợp lý khi các nhà nghiên cứu tạm thời chấp nhận
việc sử dụng các chỉ báo về thu nhập và mức sống để xem xét sự phân tầng xã hội,
tức là chỉ theo các dấu hiệu kinh tế.
Theo từ điển Bách khoa toàn thư mở Wikipedia thì phân tầng xã hội “là một khái
niệm để chỉ sự phân chia các cá nhân hay các nhóm xã hội thành các tầng lớp khác
nhau. Mỗi tầng bao gồm các cá nhân, các nhóm xã hội có địa vị kinh tế, chính trị,
uy tín giống nhau”.
Cũng có tác giả cho rằng: “Phân tầng xã hội là sự sắp xếp cá nhân trong một hệ
thống xã hội vào các tầng lớp xã hội khác nhau trên cơ sở phân chia những ngạch
bậc và những tiêu chuẩn chung về giá trị được thừa nhận”.
Từ các định nghĩa trên cho thấy, về cơ bản, phân tầng xã hội là sự phân chia xã
hội thành các tầng xã hội khác nhau về địa vị chính trị, kinh tế và xã hội, cũng như
1

những sự khác nhau về trình độ học vấn, nghề nghiệp, phong cách sinh hoạt, kiểu
ăn mặc, nơi cư trú, thị hiếu nghệ thuật, mức độ tiêu dùng,…
Phân tầng xã hội là một hiện tượng khách quan, phổ biến và khó tránh khỏi của
xã hội có giai cấp. Nó là kết quả của sự phân công lao động xã hội và sự bất bình
đẳng mang tính cơ cấu của tất cả mọi chế độ xã hội có giai cấp. Khi nói đến phân
tầng xã hội, các nhà xã hội học đề cập đến bất bình đẳng xã hội như là một yếu tố
cơ bản dẫn đến phân tầng xã hội. Sự bất bình đẳng ở đây được hiểu theo nghĩa là sự
không ngang bằng nhau giữa các cá nhân, giữa nhóm xã hội về thể chất, trí tuệ, điều
kiện, cơ may…Khái niệm phân tầng xã hội có quan hệ gần gũi với các khái niệm
như: Phân hóa giai cấp, phân hóa giàu nghèo, phân cực xã hội và có thể coi như là
những biến thể, hay là trường hợp riêng của phân tầng xã hội. Tuy nhiên, phân tầng
xã hội có ý nghĩa rộng lớn hơn phân chia giai cấp xã hội, vì giai cấp chỉ là một
trong những tiêu chuẩn hay chiều cạnh của phân chia xã hội thành các tầng lớp khác
nhau. Phân tầng xã hội không có ý nghĩa tuyệt đối, bất biến, mà có thể thay đổi do
sự vận động và phát triển không ngừng của xã hội dẫn đến sự thay đổi vị thế xã hội
của các cá nhân. Trong sự phân tầng xã hội có cả mặt “tĩnh” và mặt “động”, có cả
sự ổn định tương đối và sự cơ động của các nhóm xã hội và các cá nhân từ tầng xã
hội này sang tầng xã hội khác, hoặc chỉ trong một tầng xã hội đó.
Trong lịch sử, tương ứng với các loại xã hội khác nhau, có những hệ thống phân
tầng khác nhau. Một số quốc gia có thể có sự bất bình đẳng về kinh tế rất cao, song
quyền lực lại được phân bố một cách dân chủ, bình đẳng hơn. Trong khi ở một số
quốc gia khác, bất bình đẳng về kinh tế có thể không lớn, nhưng quyền lực lại bị tập
trung cao độ trong tay một nhóm cầm quyền, độc tài. Các nhà xã hội học thường
dẫn ra những ví dụ điển hình như nước Anh trong lịch sử đã là một xã hội giai cấp,
dựa trên cơ sở những khác biệt về sở hữu tài sản. Nước Đức quốc xã đã từng được
phân tầng theo quyền lực. Xã hội Nam Phi trước đây là ví dụ về một xã hội phân
tầng theo sự thống trị về chủng tộc. Theo các nhà xã hội học, có 4 kiểu chủ yếu về
hệ thống phân tầng xã hội là: nô lệ, đẳng cấp, phong kiến và các giai cấp xã hội.
Khái quát lại, người ta thường đề cập tới 2 kiểu phân tầng xã hội là phân tầng đóng
và phân tầng mở. Phân tầng đóng: là loại phân tầng diễn ra trong xã hội đẳng cấp, ở
đó ranh giới giữa các tầng lớp xã hội được xác định rất rõ ràng và được duy trì một
2

cách nghiêm ngặt. Các cá nhân không có cơ hội để thay đổi vị trí của mình từ tầng
lớp này sang tầng lớp khác. Phân tầng mở: là loại phân tầng trong xã hội có giai
cấp, ở đó ranh giới giữa các tầng lớp rất linh hoạt, các cá nhân trong xã hội có cơ
hội, điều kiện để di chuyển sang các tầng lớp khác. Ngoài ra, khi nghiên cứu phân
tầng xã hội có nhà xã hội học còn đề cập đến phân tầng xã hội hợp thức và phân
tầng xã hội không hợp thức , theo đó, phân tầng xã hội hợp thức là sự phân tầng dựa
trên sự khác biệt một cách tự nhiên về năng lực (thể chất, trí tuệ), về điều kiện cơ
may cũng như sự phân công lao động căn cứ vào năng lực của mỗi cá nhân và nhóm
xã hội. Thực chất của phân tầng xã hội hợp thức là sự vận hành xã hội theo nguyên
tắc “làm theo năng lực, hưởng theo lao động”, là sự phân tầng theo hướng lành
mạnh, tích cực, giúp xã hội ổn định và phát triển. Phân tầng xã hội không hợp thức
là phân tầng không dựa trên sự khác biệt tự nhiên của cá nhân về tài, đức, sự cống
hiến cho xã hội, mà dựa trên những hành vi bất chính như tham nhũng, lừa gạt, trộm
cắp, buôn bán phi pháp, xu nịnh, cơ hội…để trở nên giàu có, được nắm giữ quyền
lực, có địa vị xã hội, hoặc ngược lại, do lười biếng dựa dẫm, ỷ lại, không chịu lao
động, phấn đấu, để rơi vào tình trạng khốn khó, nghèo túng. Phân tầng không hợp
thức góp phần tạo nên và làm trầm trọng thêm sự bất công bằng xã hội, là mầm
mống gây nên sự bất ổn định và xung đột xã hội.
2. Tình hình nghiên cứu về phân tầng xã hội ở Việt Nam.
Ở Việt Nam, phân tầng xã hội diễn ra ngay từ thời kỳ quản lý kinh tế - xã hội
theo cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp. Tuy nhiên, lúc đó sự chênh lệch giàu
nghèo, phân hóa thu nhập và những biểu hiện của phân tầng xã hội chưa rạch ròi,
rõ nét, bị che khuất bởi chủ nghĩa bình quân và chế độ công hữu với cơ cấu giai cấp
“hai giai một tầng”(giai cấp công nhân liên minh với giai cấp nông dân và tầng lớp
trí thức). Chỉ từ sau khi đất nước bước vào công cuộc đổi mới toàn diện (1986), xóa
bỏ cơ chế quản lý cũ, thực hiện phát triển kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thì sự chênh lệch giàu nghèo, phân tầng xã hội
mới bộc lộ một cách rõ ràng và ngày càng trở nên sâu sắc. Lúc này đã xuất hiện
những công trình nghiên cứu về cơ cấu xã hội và phân tầng xã hội nhằm cung cấp
những căn cứ lý luận và thực tiễn giúp Đảng và nhà nước kịp thời đưa ra những

3

định hướng chiến lược và những chính sách phát triển kinh tế - xã hội phù hợp với
thời kỳ chuyển đổi cơ chế và mô hình quản lý phát triển đất nước.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu về cơ cấu xã hội và phân tầng xã hội nêu
trên đã cho thấy sự cần thiết phải tiếp tục tìm hiểu một cách khách quan, khoa học
về phân hóa giàu nghèo, bất bình đẳng xã hội, các loại cơ cấu xã hội, những biểu
hiện của phân tầng xã hội và những hệ lụy của nó, cũng như đánh giá được mối
tương tác giữa các loại cơ cấu xã hội, các giai tầng xã hội, từ đó mở rộng và đi sâu
nghiên cứu các vấn đề về biến đổi xã hội, di động xã hội, cơ động xã hội với mục
tiêu là tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và khái quát lý luận để có thể đề xuất quan
điểm và giải pháp định hướng, điều chỉnh cơ cấu xã hội và phân tầng xã hội đến
năm 2020, tạo sự đồng thuận và động lực cho đất nước phát triển nhanh và bền
vững.
Ngoài các thước đo về mặt kinh tế, sự phân tầng xã hội còn có thể biểu hiện rõ ở
trình độ học vấn, tỉ lệ đi học, biết chữ, mức độ tiếp cận và được chăm sóc y tế, mức
độ tham gia lãnh đạo, quản lý… Như vậy, để tiếp cận và phân tích có cơ sở khoa
học vững chắc về sự phân tầng xã hội theo đúng nghĩa của từ này, ngoài những
thước đo về kinh tế cần sử dụng các thước đo phi kinh tế và cần dựa trên nhiều
thông tin và chỉ báo khác nữa, cũng như cần có thêm những cách tiếp cận thích hợp
hơn.
II. TÌNH HÌNH PHÂN TẦNG XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY VÀ
NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
1. Giai đoạn 1993 – 1998
Trong thập kỷ 90 của thế kỷ trước, mức sống của đại đa số dân cư nước ta đã
tăng lên đáng kể. Tuy nhiên, sự chênh lệch về mức sống cũng ngày càng tăng, tạo
nên một sự phân tầng xã hội rõ nét hơn giữa và trong các nhóm xã hội. Chẳng hạn,
chênh lệch về chi tiêu giữa nhóm 20% giàu nhất và nhóm 20% nghèo nhất là
khoảng 5,52 lần vào năm 1998 và 4,58 lần vào năm 1993. Còn chênh lệch theo thu
nhập thì cao hơn. Năm 1998, chênh lệch về thu nhập giữa nhóm 20% giàu nhất và
nhóm 20% nghèo nhất là 11,26 lần, giữa nhóm 10% giàu nhất và nhóm 10% nghèo
nhất là hơn 20 lần, còn giữa nhóm 5% giàu nhất và nhóm 5% nghèo nhất là hơn 40
lần.
4

Sự phân tầng theo mức sống hiện nay cũng có liên quan với số nhân khẩu và tỷ lệ
phụ thuộc của hộ gia đình (tỷ lệ người ngoài độ tuổi lao động so với người trong độ
tuổi lao động). Tỷ lệ này của 20% hộ nghèo nhất là 1,13, cao gấp đôi so với nhóm
20% hộ giàu nhất (0,54).
Người có học vấn càng cao, càng có nhiều khả năng thuộc vào nhóm có mức
sống cao. Trong những chủ hộ có học vấn đại học, cao đẳng trở lên thì 70% thuộc
nhóm 20% giàu nhất, chỉ có 1,5% thuộc nhóm 20% nghèo nhất. Chi tiêu của hộ có
chủ hộ học vấn đại học, cao đẳng trở lên cao gấp 2,33 lần (năm 1993) và 3,4 lần
(năm 1998) so với hộ có chủ hộ chưa bao giờ đến trường.
Phân tầng mức sống cũng gắn liền với sự khác biệt theo khu vực và vùng kinh tế
– xã hội. 97% dân số trong độ tuổi lao động thuộc nhóm 20% nghèo nhất là ở nông
thôn và 65% dân số trong độ tuổi lao động thuộc nhóm 20% giàu nhất là ở đô thị.
Sự chênh lệch mức sống giữa thành thị và nông thôn đóng góp phần chủ yếu (tới
96%) vào mức độ phân tầng mức sống nói chung trên quy mô toàn quốc. Phần lớn
dân số trong độ tuổi lao động thuộc nhóm 20% giàu nhất sống ở các vùng: Đông
Nam Bộ (37%), Đồng bằng sông Hồng (21%) và Đồng bằng sông Cửu Long (18%),
trong khi ở vùng núi phía Bắc chỉ có gần 7% và ở Bắc Trung Bộ là 6%.
Phân tầng mức sống cũng liên quan rõ rệt theo các khu vực kinh tế. Phần lớn
người làm việc trong khu vực kinh tế nhà nước có mức sống thuộc nhóm 20% giàu
nhất, hoặc rơi vào 2 nhóm trên cùng (75-80%). Tình hình cũng tương tự như vậy ở
nhóm làm việc trong doanh nghiệp nước ngoài. Chỉ có 1/3 lao động trong doanh
nghiệp tư nhân và gần 1/5 lao động trong hộ sản xuất kinh doanh nhỏ, thuộc vào
nhóm 20% giàu nhất. Khoảng 40% những người lao động thuộc hợp tác xã, doanh
nghiệp tư nhân và hộ sản xuất kinh doanh nhỏ thuộc vào nhóm có mức sống dưới
trung bình. 3/4 người thuộc nhóm 20% nghèo nhất là lao động trong hộ sản xuất
kinh doanh nhỏ, trong khi 60% người thuộc nhóm 20% giàu nhất làm việc trong 3
khu vực của Nhà nước (kinh tế, hành chính – sự nghiệp, chính trị – xã hội). Như
vậy, người có khả năng sẽ có mức sống cao hơn nếu gắn với khu vực nhà nước, khu
vực chính quy (chẳng hạn, doanh nghiệp có đăng ký) và khu vực đầu tư nước ngoài.
Ngược lại, mức sống thấp hơn thường gắn với những người làm việc trong khu vực
ngoài nhà nước, khu vực phi chính quy, hộ sản xuất kinh doanh nhỏ, hợp tác xã.
5

Phân tầng xã hội cũng có biểu hiện trong lĩnh vực phúc lợi xã hội. Trợ cấp phúc
lợi xã hội là công cụ mà nhà nước dùng để giảm bớt những chênh lệch quá lớn, bảo
đảm công bằng xã hội. Tuy nhiên, ở Việt Nam hiện nay, những trợ cấp này còn
chiếm tỷ trọng rất thấp trong tổng thu nhập của dân cư (khoảng 4,4%). Dân cư Việt
Nam chủ yếu có thu nhập từ lao động cá nhân và gia đình; thu nhập do phân phối
lại, mang tính xã hội còn thấp. Trong việc phân phối phúc lợi xã hội, chiếm tỷ trọng
cao nhất là chi cho bảo hiểm xã hội, bao gồm chi hưu trí và mất sức lao động
(82,4%), tiếp theo là chi cho bảo trợ xã hội (16,0%), chi cho xoá đói giảm nghèo
(1,1%). Tương quan giữa phúc lợi xã hội và phân tầng xã hội chỉ ra rằng, hiện nay
chủ yếu là nhóm có mức sống “trung bình” và “trên trung bình” được hưởng phúc
lợi cao hơn các nhóm khác.
Qua phân tích ở trên, nhìn chung, hiện trạng phân tầng xã hội ở nước ta thời kỳ
này khá đặc trưng cho thời kỳ đầu chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung
sang kinh tế thị trường. Mức chênh lệch giữa các tầng lớp chưa lớn, tốc độ tăng
chênh lệch chưa cao. Tuy nhiên, có một số đặc điểm cần lưu ý là: các tầng lớp trung
lưu và trung lưu trên thường gắn với khu vực nhà nước, khu vực kinh tế chính quy.
Hai nhóm này cũng được hưởng lợi nhiều hơn từ việc phân phối phúc lợi xã hội so
với các nhóm còn lại.
2. Giai đoạn 1999 đến nay
Kết quả khảo sát mức sống hộ gia đình Việt Nam năm 2008 của Tổng cục thống
kê cho thấy, kể từ khi Việt Nam thực hiện đường lối đổi mới, cùng với sự tăng
trưởng kinh tế và những nỗ lực xóa đói, giảm nghèo của Đảng, Nhà nước, đời sống
nhân dân đã được cải thiện. Mức thu nhập bình quân đầu người liên tục tăng trên
phạm vi cả nước, tăng từ 295 nghìn đồng/tháng (năm 1999) lên 995 nghìn
đồng/tháng (năm 2008) (xem bảng 1).
Bảng 1. Thu nhập bình quân đầu người từ 1999-2008 (nghìn đồng)
TT

Năm/khu vực

1999

2002

2004

2006

2008

1

Cả nước

295

356

484

636

995

2

Thành thị

517

622

815

1058

1605

3

Nông thôn

225

275

378

506

762

(Nguồn: Niên giám thống kê 2009, Nxb Thống kê, 2010)
6

Số liệu trên cũng cho thấy có sự chênh lệch thu nhập giữa thành thị và nông thôn.
Thu nhập bình quân 1 người 1 tháng ở khu vực thành thị đạt 1.605 nghìn đồng,
trong khi khu vực nông thôn đạt 762 nghìn đồng. Mức chênh lệch giàu nghèo về
mặt thu nhập giữa nhóm 20% gia đình giàu nhất so với nhóm 20% gia đình nghèo
nhất ở Việt Nam đã tăng từ mức 4,3 lần năm 1993 lên hơn 8,9 lần năm 2008. Mức
độ bất bình đẳng về kinh tế ở thành thị tăng chậm hơn ở nông thôn, nhưng lại cao
hơn nông thôn. Cụ thể là: khoảng cách giàu nghèo về thu nhập ở thành thị tăng từ 8
lần (năm 2002) đến 8,3 lần (năm 2008), trong khi đó khoảng cách giàu nghèo ở
nông thôn tăng từ 6 lần lên 6,9 lần trong cùng kỳ này. Vùng giàu nhất ở Việt Nam
là vùng Đông Nam bộ, nhưng lại có mức bất bình đẳng lớn nhất với khoảng cách
giàu nghèo là 8,7 lần (năm 2008). Một trong những vùng nghèo nhất nước là vùng
Bắc Trung bộ, nhưng có mức bất bình đẳng thấp nhất là 6,5 lần (năm 2008). Phân
tầng về thu nhập và mức sống cũng diễn ra sâu sắc theo các nhóm nghề nghiệp, việc
làm. Nhóm nhân lực có thu nhập được xếp vào loại “đỉnh”, “hot” là các giám đốc
điều hành, trưởng đại diện, trưởng phòng, cán bộ phụ trách kinh doanh… đang làm
việc tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các công ty liên doanh, các
công ty hoạt động trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, chứng khoán, bác sỹ tại một
số bệnh viện, phòng khám tư nhân…Nhóm này có thu nhập từ 1000 USD/tháng trở
lên. Ngược lại, nhóm có thu nhập thấp là công nhân lao động đang làm việc trong
các khu công nghiệp, doanh nghiệp nước ngoài, với khoản thu nhập khoảng 1,2 1,4 triệu đồng/tháng. Thu nhập của công nhân tại các doanh nghiệp thuộc khu vực
kinh tế ngoài nhà nước chỉ khoảng 900 nghìn đồng - 1,1 triệu đồng/tháng. Quá trình
phân tầng về thu nhập cũng diễn ra mạnh mẽ ngay trong mỗi giai cấp và tầng lớp.
Trong giai cấp công nhân, những người có tay nghề cao làm trong khu vực có vốn
đầu tư nước ngoài, có mức thu nhập trung bình cao hơn 1,5 đến 2 lần so với các khu
vực khác. Trong giai cấp nông dân, năm 2006, chi tiêu cho đời sống bình quân đầu
người/tháng khu vực nông thôn vùng Đông Nam Bộ là 740 ngàn đồng, gấp 2,5 lần
vùng có mức chi tiêu đời sống thấp nhất là Tây Bắc với 296,3 ngàn đồng. Nhiều
nông dân trở nên tỉ phú, thành “ông chủ”, trong khi nhiều người thất nghiệp, mất
đất, phải đi làm thuê. Đối với đội ngũ trí thức cũng có tình hình tương tự. Nhiều bác
sĩ, kỹ sư, giảng viên đại học…thành đạt có mức sống cao, bên cạnh đó cũng còn
7

nhiều người sống rất chật vật. Trong xã hội, từ cơ cấu “hai giai, một tầng” với mức
sống không khác biệt nhiều trong thời kỳ trước đổi mới, giờ đây đã hình thành
những nhóm giàu và rất giàu (tỉ phú, triệu phú đô la); nhóm trung lưu khá giả; nhóm
nghèo và nhóm đói nghèo.
Bên cạnh sự phân tầng về thu nhập là sự phân tầng và bất bình đẳng diễn ra trên
các mặt giáo dục, y tế, văn hóa, an sinh xã hội… Chẳng hạn, tỉ lệ hoàn thành giáo
dục ở bậc tiểu học trên toàn quốc đạt gần 90%, nhưng ở vùng cao như Tây nguyên
chỉ đạt 43%, các tỉnh miền núi phía Bắc là 48%. Trong số 1/3 trẻ em các dân tộc ít
người không học hết lớp 5, thì có đến 70% học sinh bỏ học là em gái (6) Tỉ lệ phụ
nữ và trẻ em gái tham gia học tập dưới nhiều hình thức đào tạo mới chiếm từ 38%
đến 40%. Tỉ lệ phụ nữ có học hàm, học vị còn quá thấp so với nam giới, chỉ chiếm
khoảng 5%. Nhiều nông dân trẻ, con em nhà nghèo, nhất là những xã nghèo miền
núi, vùng dân tộc không có điều kiện để học chữ, học nghề, không có điều kiện để
được tiếp cận và thừa hưởng nền giáo dục chất lượng cao, từ đó không thể nâng cao
trí lực và vốn xã hội, không thể kiếm được việc làm với mức thu nhập cao. Trong
khi đó, cư dân đô thị được tiếp cận nền giáo dục chất lượng cao, được cơ hội tiếp
cận và thụ hưởng các dịch vụ y tế, văn hóa, an sinh xã hội tốt hơn, thu nhập cao
hơn, do đó mức sống cao hơn, cơ hội thành đạt và phát triển cao hơn.
Điều đáng lưu ý là hiện tượng phân tầng xã hội ở Việt Nam hiện nay diễn ra
đồng thời theo hai xu hướng: Hợp thức và không hợp thức. Bên cạnh xu hướng
phân tầng hợp thức là chủ đạo, trong xã hội cũng đang diễn ra xu hướng phân tầng
không hợp thức. Đã và đang xuất hiện ngày càng nhiều những nhóm giàu có nhanh
chóng nhờ những thủ đoạn làm ăn phi pháp, bất minh, cơ hội, lợi dụng những kẽ hở
và sự chưa hoàn thiện của luật pháp và hệ thống quản lý, sự thoái hóa biến chất,
quan liêu, tham nhũng của một bộ phận cán bộ quản lý, có chức, có quyền. Có tình
trạng một bộ phận cán bộ, đảng viên, quan chức trong bộ máy nhà nước thông
đồng, câu kết với giới làm ăn bất chính, cố tình làm sai lệch chính sách và pháp luật
của nhà nước để trục lợi, gây thiệt hại cho lợi ích của nhà nước và công dân. Cũng
không ít kẻ nhờ có tiền và những thủ đoạn cơ hội, mua bằng cấp, quyền chức, câu
kết với giới quan chức thoái hóa mà trở nên giàu sang, có địa vị. Đây chính là
những yếu tố góp phần gây nên và làm trầm trọng thêm tình trạng bất bình đẳng, bất
8

công trong xã hội, làm nhiễu loạn hệ thống giá trị, chuẩn mực xã hội, làm mất lòng
tin của nhân dân vào bản chất tốt đẹp của chế độ và định hướng xã hội chủ nghĩa
mà Việt Nam đang theo đuổi.
Qua nghiên cứu thực trạng phân tầng xã hội ở Việt Nam cho thấy tồn tại cả hai
mặt tích cực và tiêu cực. Mặt tích cực của phân tầng xã hội là khơi dậy, thúc đẩy
tính tích cực, năng động, chủ động, sáng tạo của mỗi cá nhân, nhóm xã hội trong
việc phát hiện khai thác các cơ hội để làm giàu chính đáng, vươn lên thành đạt trong
các lĩnh vực của đời sống, thích ứng nhanh với cơ chế thị trường. Những biến đổi
trong cơ cấu giai tầng xã hội dưới tác động của phân tầng xã hội có tác động tích
cực, góp phần kích thích mạnh mẽ sự chuyển đổi mô hình và cơ cấu kinh tế theo
hướng phát triển hợp lý, bền vững, làm tăng tính cơ động xã hội và sự phân công lại
lao động xã hội phù hợp với yêu cầu phát triển mới của đất nước. Thông qua phân
tầng xã hội mà sàng lọc, tuyển chọn, hình thành được những tầng lớp mới, những
nhóm ưu tú, vượt trội, có những phẩm chất và năng lực cần thiết, thích ứng được
với sự biến đổi của xã hội. Nhìn chung, sự phân tầng xã hội có xu hướng chuyển
mạnh và rõ nét từ trì trệ, khép kín sang cởi mở, năng động, linh hoạt, mềm dẻo
nhằm tạo ra các cơ hội và đáp ứng tốt hơn các nhu cầu ngày càng đa dạng, phong
phú của các cá nhân và các giai tầng xã hội trong nền kinh tế thị trường.
Mặt tiêu cực của phân tầng xã hội, nhất là phân tầng bất hợp thức là những hệ
lụy, những mặt trái mà nó tác động, ảnh hưởng đến xã hội. Đó là sự phân hóa giàu
nghèo, chênh lệch về mức sống, bất bình đẳng xã hội gia tăng, là sự đảo lộn và
nhiễu loạn các giá trị xã hội, là sự mất lòng tin của người dân vào chế độ và những
người đại diện cho chế độ, dẫn đến những hành vi tiêu cực, bất mãn, phá hoại, làm
cho xã hội mất ổn định, những động lực chân chính bị triệt tiêu, làm tăng những yếu
tố tiêu cực, rủi ro, cản trở sự phát triển xã hội.
Phân tầng xã hội với hai mặt tích cực và tiêu cực nêu trên, vừa là kết quả của sự
phát triển kinh tế - xã hội, sự phân công lao động trong cơ chế thị trường, vừa là
động lực vừa là lực cản của quá trình đó, tùy thuộc vào năng lực quản trị xã hội của
hệ thống quản lý xã hội. Điều đó đòi hỏi phải có những nghiên cứu sâu rộng hơn về
phân tầng xã hội, qua đó giúp cơ quan quản lý hiểu rõ hơn xu hướng vận động của
cơ cấu xã hội với các giai tầng khác nhau trong nền kinh tế thị trường, từ đó có
9

những chính sách, giải pháp quản trị phù hợp, phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt
tiêu cực, bảo đảm sự ổn định và phát triển xã hội bền vững.
III. MỘT SỐ ĐỊNH HƯỚNG HẠN CHẾ MẶT TIÊU CỰC CỦA PHÂN
TẦNG XÃ HỘI Ở VIỆT NAM.
1. Đẩy mạnh phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phấn đấu đưa Việt Nam trở thành một nước công
nghiệp theo hướng hiện đại, một xã hội có dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh như Nghị quyết Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI đã
khẳng định.
Phát triển kinh tế tự nó không bao hàm và không giải quyết được tất cả các vấn
đề xã hội, không ngăn cản được phân tầng xã hội, nhưng sẽ là cơ sở để giải quyết
các vấn đề xã hội như việc làm, xóa đói giảm nghèo, nâng cao đời sống nhân dân,
phát huy tính tích cực, năng động của các thành phần kinh tế, huy động các nguồn
lực để hỗ trợ các nhóm xã hội, các khu vực còn khó khăn, hạn chế sự phân tầng theo
hướng tiêu cực. Tuy nhiên, phát triển xã hội nói chung, trong đó có phát triển kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đòi hỏi phải thực hiện nhất quán nguyên
tắc công bằng, bình đẳng xã hội đối với con người, với các cộng đồng người trong
cơ cấu xã hội, lấy con người làm trung tâm, lấy chất lượng cuộc sống và triển vọng
phát triển của con người làm mục tiêu sâu xa, tối thượng.
2. Trong phát triển xã hội, quản trị phân tầng xã hội phải thấu suốt và thực hiện
nhất quán chủ trương: “Kết hợp chặt chẽ các mục tiêu, chính sách kinh tế với các
mục tiêu, chính sách xã hội; thực hiện tốt tiến bộ, công bằng xã hội trong từng
bước, từng chính sách phát triển…Tạo cơ hội bình đẳng tiếp cận các nguồn lực phát
triển và hưởng thụ các dịch vụ cơ bản, các phúc lợi xã hội”. Điều đó có nghĩa là,
tăng trưởng kinh tế phải gắn với việc cải thiện các khía cạnh liên quan đến phát
triển con người, xã hội, gắn với thực hiện các chỉ tiêu về phát triển xã hội, trong đó
trọng tâm là xóa đói, giảm nghèo, công bằng xã hội, giải quyết việc làm, các chỉ tiêu
liên quan đến phát triển toàn diện con người như giáo dục, y tế, văn hóa, thể thao,
các chỉ số về giới và dân tộc… Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với việc tạo cơ hội
phát triển một cách công bằng cho tất cả mọi người, mọi giai tầng và nhóm xã hội.
Tăng trưởng kinh tế phải gắn với việc nâng cao mức sống của đại đa số quần chúng
10

nhân dân thông qua chính sách phân phối và phân phối lại thu nhập một cách công
bằng, hợp lý. Thực hiện việc khuyến khích làm giàu hợp pháp, đồng thời có chính
sách và giải pháp phù hợp nhằm hạn chế phân hóa giàu nghèo, giảm chênh lệch
mức sống giữa nông thôn và thành thị.
3. Trong vận hành nền kinh tế cần “chủ động điều tiết, giảm các tác động tiêu
cực của thị trường, không phó mặc cho thị trường hoặc can thiệp, làm sai lệch các
quan hệ thị trường”, và gắn liền với đó là “thực hiện ngày càng tốt hơn an sinh xã
hội và phúc lợi xã hội, bảo vệ và trợ giúp các đối tượng dễ bị tổn thương trong nền
kinh tế thị trường”.
Có chính sách an sinh xã hội cho các đối tượng thu nhập thấp, các nhóm xã hội
“yếu thế”, đồng bào miền núi, vùng dân tộc, nông thôn, vùng sâu, vùng xa…phù
hợp với điều kiện và khả năng của nền kinh tế. Cần tăng cường sự kiểm soát nhà
nước để đảm bảo rằng những chính sách điều tiết đảm bảo công bằng xã hội, an
sinh xã hội được thực hiện nghiêm túc, kịp thời, đúng đối tượng, thể hiện bản chất
tốt đẹp của chế độ ta.
4. Cần tạo môi trường xã hội dân chủ, công khai, minh bạch, làm cho mọi người,
mọi thành phần kinh tế, mọi giai tầng xã hội được cạnh tranh lành mạnh, có cơ hội
bình đẳng để phát huy tài năng, trí tuệ, vươn lên làm giàu, tham gia vào quản lý xã
hội, tự khẳng định mình. Khi ban hành luật pháp, cơ chế, chính sách, Nhà nước phải
xem xét một cách toàn diện, cẩn trọng, để một mặt, khuyến khích những nhân tố
mới, những yếu tố tích cực, mặt khác, khắc phục và hạn chế các khuyết tật và mặt
trái của kinh tế thị trường về phân tầng xã hội và phân hóa giàu nghèo, không làm
tổn hại đến quyền và lợi ích của những cộng đồng “yếu thế”, tạo điều kiện để những
người bị thiệt thòi có điều kiện vươn lên hòa nhập với cộng đồng.
5. Thực hiện một cách đồng bộ, toàn diện các biện pháp, kết hợp cả các biện
pháp về kinh tế, chính trị, hành chính, luật pháp lẫn giáo dục, thuyết phục… để định
hướng và điều chỉnh cơ cấu xã hội và phân tầng xã hội theo hướng phát triển bền
vững, kích thích mạnh mẽ sự chuyển đổi mô hình phát triển kinh tế, làm tăng tính
cơ động xã hội và sự phân công lại lao động xã hội một cách hợp lý, hạn chế xu thế
phân tầng bất hợp thức và những tác động tiêu cực của nó đối với phát triển xã hội.

11

6. Để quản trị phân tầng có hiệu quả đòi hỏi phải coi trọng và tăng cường công
tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn về phân tầng xã hội, phân hóa giai cấp,
phân hóa giàu nghèo, bất bình đẳng xã hội…để nắm bắt, dự báo xu hướng của tình
hình, trên cơ sở đó chủ động đề xuất các quan điểm và giải pháp trước mắt và lâu
dài cho hoạch định chiến lược, đường lối phát triển xã hội và quản lý xã hội ở nước
ta trong thời kỳ đổi mới, hội nhập quốc tế.

12

Tài liệu tham khảo:
1. Xem: Trịnh Duy Luân: Phân tầng xã hội ở Việt Nam hiện nay - Phương pháp
tiếp cận và kết quả nghiên cứu.
(http://www.cmard2.edu.vn/index.php?option=com_content&view=article&i
d=582:phan-tng-xa-hi-vit-nam-hin-nay-phng-phap-tip-cn-va-sn-phm-nghiencu&catid=71:hoithao&Itemid=167&lang=vi)
2. Lê Hữu Nghĩa: Một số vấn đề cần nghiên cứu về cơ cấu xã hội và phân tầng
xã hội ở nước ta trong điều kiện hiện nay. Tạp chí Lý luận Chính trị.
3. Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI, NXB CTQG-ST, H.2011, Tr.124.

13