Phân tích bài thơ đây mùa thu tới của xuân diệu những bài văn mẫu hay lớp 11

  • pdf
  • 12 trang
Phân tích bài thơ Đây mùa thu tới của thi sĩ Xuân Diệu.
Bài tham khảo 1
Xuân Diệu (1916-1985) là nhà thơ tình, viết hay nhất và nhiều nhất trong thời
đại chúng ta. Thi sĩ đã để lại trên 400 bài thơ tình,; là nhà thơ "mới nhất trong
những nhà thơ mới". Xuân Diệu cũng là thi sĩ của mùa thu. Với Xuân Diệu nếu
"Tình không tuổi và xuân không ngày tháng" thì cảnh thu chứa đựng biết bao tình
thu, bao rung động xôn xao, bởi lẽ "Thu đến - nơi nơi động tiếng huyền”.
Trong hai tập thơ viết trước Cách mạng: "Thơ thơ" và "Gửi hương cho gió " có
rất nhiều bài thơ nói đến sắc thu, hương thu, trăng thu, tình thu, thiếu nữ buổi thu
về... Mùa thu thật đáng yêu, làm cho tâm hồn thi sĩ như dây đàn huyền diệu đang
rung lên xao xuyến...
"Đây mùa thu tới" là một bài thơ thu tuyệt bút của Xuân Diệu, rút trong tập
"Thơ thơ", xuất bản năm 1938. Thu đến, xôn xao rung động đất trời. Cảnh vật đẹp
mà thoáng buồn man mác. Lòng thiếu nữ càng trở nên bâng khuâng buổi thu về.
Cảm nhận đầu tiên của thi sĩ Xuân Diệu về mùa thu không phải là âm thanh
tiếng chày đập vải, không phải là ấn tượng "Ngô đồng nhất diệp lạc - Thiên hạ
cộng trì thu" mà là ở dáng liễu, rặng liễu ven hồ, hay bên đường:
"Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang,
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng".
Cả một không gian "đìu hiu", buồn và vắng vẻ. Rặng liễu trầm mặc như "đứng
chịu tang". Lá liễu buông dài như tóc nàng cô phụ "buồn buông xuống". Lá liễu
ướt đẫm sương thu tưởng như "lệ ngàn hàng". Liễu được nhân hóa "đứng chịu
tang", từ tóc liễu đến lệ liễu đều mang theo bao nỗi buồn thấm thía. Một nét liễu,
một dáng liễu được miêu tả và cảm nhận đầy chất thơ. Biện pháp láy âm được
Xuân Diệu vận dụng tài tình để tạo nên vần thơ giàu âm điệu, nhạc điệu: "đìu hiu chịu", "tang - ngàn - hàng", "buồn - buông - xuống". Đó là một điểm mạnh, khá
mới mẻ trong thi pháp mà Xuân Diệu đã học tập được trong trường phái thơ tượng
trưng Pháp trong thế kỉ XIX.
Say mê ngắm "rặng liễu đìu hiu... ", nhà thơ khẽ reo lên khi chợt nhận thấy thu

đã đến. Cách ngắt nhịp 4/3 với điệp ngữ "mùa thu tới" đã diễn tả bước đi của mùa
thu và niềm mong đợi thu về bấy lâu nay trong lòng thi sĩ:
"Đây mùa thu tới/mùa thu tới
Với áo mơ phai/dệt lá vàng".
Một vần lưng thần tình: "tới - với", một chữ "dệt" tinh tế trong miêu tả và cảm
nhận. Thu vừa tới, sắc màu cỏ cây vạn vật đều đổi thay, trở thành "mơ phai". Đó
đây điểm tô một vài sắc vàng của lá, đúng là "dệt lá vàng". Câu thơ "Với áo mơ
phai dệt lá vàng" là một câu thơ nhiều thi vị, nói lên cái hồn thu với sắc lá, gợi lên
cảm giác thanh nhẹ, tươi sáng về mùa thu đáng yêu vô cùng.
Có thể nói, khổ thơ đầu đã vẽ lên một bức tranh thu đẹp, thơ mộng, thấm một
nỗi buồn từ cây cỏ đến lòng người, nhưng không ảm đạm, thê lương làm nặng trĩu
lòng người.
Mỗi ngày mỗi đêm đi qua. Thu đã về và thu dần dần trôi qua. Cảnh vật biến
đổi. Hoa đã "rụng cành". Tác giả không nói "đôi ba...”, mà lại viết "hơn một" cách
dùng số từ ấy cũng là một cách nói rất mới. Trong vườn, màu đỏ (từng chấm nhỏ)
đang lấn dần, đã và đang "rũa màu xanh"! Cũng nói về sự biến đổi ấy, trong bài
"Cảm thu, tiễn thu” thi sĩ Tản Đà viết:
"Sắc đâu nhuộm ố quan hà
Cỏ vùng cây đỏ bóng tà tà dương".
Cây cối bắt đầu rụng lá trơ cành như đang "run rẩy", khẽ "rung rinh" trước
những làn gió thu lành lạnh, se sắt. Khổ thơ thứ hai, chất thơ ấy là sự lay động xôn
xao từ cảnh vật, từ hoa lá hơi may mà thấm vào hồn thi sĩ:
"Hơn một loài hoa đã rụng cành
Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh.
Những luồng run rẩy, rung rinh lá,
Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh".
Các từ láy: "run rẩy", "rung rinh”, "mỏng manh" là những nét vẽ thần diệu gợi
tả cái run rẩy, cái rùng mình của cây lá buổi chiều thu. Nghệ thuật sử dụng các phụ
âm , “r" (rụng, rũa, run rẩy, rung rinh) và phụ âm "m" (một, màu, mỏng manh) với

dụng ý thẩm mĩ trong gợi tả và biểu cảm đặc sắc. Đó cũng là một nét mới trong thi
pháp của Xuân Diệu.
Khổ thơ thứ 3, thi liệu vừa hiện thực vừa ước lệ tượng trưng, vừa kế thừa vừa
cách tân sáng tạo. Cũng có trăng nhưng là "nàng trăng tự ngẩn ngơ" trên bầu trời.
Không nói là trăng non đầu tháng, không hỏi "Trăng bao nhiêu tuổi trăng già" mà
lại nói là "nàng trăng". Một hình ảnh đẹp, thơ mộng tả vầng trăng thu. Cũng ó núi,
có non, lúc ẩn lúc hiện, "khởi sự" nhô lên cuối chân trời xa, qua lớp sương thu mờ.
Trăng và núi trong thơ Xuân Diệu chứa đựng cái hồn thu muôn thuở của xứ sở quê
hương, gần gũi và thân thuộc từ bao đời nay được vẽ lên thật đẹp:
"Thỉnh thoang nàng trăng tự ngẩn ngơ
Non xa khởi sự nhạt sương mờ... "
Hai tiếng "đã nghe", "đã vắng" gợi tả cái không gian bao la, vắng vẻ của
những buổi chiều thu lành lạnh:
"Đã nghe rét mướt luồn trong gió,
Đã vắng người sang những chuyến đò”
Cấu trúc câu thơ song hành và cách diễn tả cũng rất mới. Có chuyển đổi cảm
giác giữa xúc giác và thính giác. Như vậy, sự cảm nhận của thi nhân về rét, về gió,
về cái xa vắng không chỉ bằng giác quan mà còn bằng cả linh hồn nữa. Chữ "luồn"
đã cụ thể hóa cái rét, cảm nhận được nó bằng trực giác. Rét mướt luồn trong gió
thu hiu hắt chứ không phải là gió rét. Rõ ràng là chưa rét đậm, rét tê tái, đúng là
cái rét, cái lành lạnh những chiều thu, những đêm tàn thu.
Khổ cuối là một bức tranh thu tuyệt đẹp. Có vẻ đẹp của thiên nhiên, của mây
trời, cánh chim. Có vẻ đẹp thiếu nữ. Cảnh đẹp, người đẹp mà thoáng buồn mơ hồ
mênh mông. Mây và cánh chim gợi lên nỗi buồn đẹp chia li như "bèo dạt mây trôi"
của tình ca! Thi sĩ đã lấy cái "động" của cánh chim bay, của áng mây chiều trôi để
đặc tả cái êm đềm, yên tĩnh của cõi vật và lòng người:
"Mây vẩn từng không chim bay đi,
Khí trời u uất hận chia li"...
Trong cái êm đềm, xa vắng ấy hiện lên hình ảnh thiếu nữ "ít nhiều" chưa xác

định. Buồn tương tư, "buồn không nói". Một dáng điệu "tựa cửa nhìn xa", một tâm
hồn "nghĩ ngợi gì" rất mơ hồ, xa xăm:
"Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói,
Tựa cửa nhìn xa, nghĩ ngợi gì"
Là mùa xuân hay mùa thu, là mùa hè hay mùa đông, giữa thiên nhiên trăm sắc
nghìn hương ấy, hình ảnh thiếu nữ đa tình, duyên dáng luôn luôn thấp thoáng qua
những vần thơ của Xuân Diệu. Thi sĩ đa tình nên thiếu nữ cũng đa tình?
"Bên cửa ngừng kim thêu bức gấm
Hây hây thục nữ mắt như thuyền".
("Nụ cười xuân" - Thơ thơ)
Trong chùm thơ thu của Yên Đổ, tình thu buồn thấm thía cô đơn được thể hiện
qua hình ảnh một ông lão, lúc đang "tựa gối ôm cần" trên một chiếc thuyền câu
"bé tẻo teo" giữa chiếc ao thu "lạnh lẽo", lúc là một cụ già đang ngồi uống rượu
ngà ngà say trong đêm sâu, có lúc lại là một nhà nho đang lặng ngắm cảnh thu,
muốn cầm bút đề thơ mà phân vân, lưỡng lự... Còn trong thơ thu của Xuân Diệu là
hình bóng một giai nhân trong tương tư, đang mộng tưởng. Đó cũng là một nét
mới nói về mùa thu trong thơ Xuân Diệu. Có thể nói trạng thái buồn mơ hồ, buồn
không rõ nguyên cớ là một nét tâm trạng rất điển hình của hồn thơ Xuân Diệu:
"Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói... "
Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn...".
Đây mùa thu tới" là một bài thơ thu tuyệt bút của Xuân Điệu. Bao nhiêu nét
thu là bấy nhiêu nét vẽ tài hoa. Dáng thu, sắc thu, tình thu đều đẹp mà buồn, bao
nên cái hồn thu mênh mang, xao xuyến. Đáng yêu nhất là hình ảnh thiếu nữ, một
dáng thu yêu kiều mộng tưởng "Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì". Một trái tim đa tình,
một ngòi bút tài hoa. Cách cảm và cách diễn tả rất mới, rất thơ. Đằng sau những
sắc thu của đất trời, hoa lá, cây cỏ, của núi xa, của nàng trăng, của làn gió thu se
lạnh,... là tiếng thu xôn xao, rung động trong tâm hồn thi sĩ tuổi đôi mươi và trong
lòng thiếu nữ tuổi trăng tròn. Bài thơ cho ta nhiều ngẩn ngơ say cái hương sắc mùa
thu xưa, mùa thu Hà Nội hơn nửa thế kỉ trước.

Bài tham khảo 2
Đây mùa thu tới được in trong tập Thơ Thơ (1938) là một thi phẩm đặc sắc,
tiêu biểu cho hồn thơ Xuân Diệu trước cách mạng. Cái lạ ở bài thơ không phải ở
đề tài thu đã quá quen thuộc trong thơ ca truyền thống mà đặc sắc của nó nằm ở sự
mới mẻ trước thiên nhiên và sự nỗi niềm xôn xao bắt nguồn từ những nỗi cô đơn
cùng sự khát khao giao cảm với đời. Nó chỉ thật sự xuất hiện trong ý thức cá nhân
của nhà thơ mới.
Bài thơ có bốn khổ mới khổ là một bước đi của thời gian, tất cả đều nhằm
xoáy vào ý đồ nghệ thuật của nhà thơ. Đó là xây dựng một hình tượng mùa thu
như một mĩ nhân. Mùa thu hóa thành một mĩ nữ mĩ miều cao sang tha thiết buồn
nhưng mang một vẻ đẹp lang mạn. Nàng thu ấy như đang nhón gót trên đường
biên của phút giao mùa.
Ở khổ thơ thứ nhất Xuân Diệu miêu tả mua thu tới ở ven hồ:
“Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng
Đây mùa thu tới mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng”
Tín hiệu của mùa thu sang được nhà thơ thể hiện qua hình ảnh liễu đứng chịu
tang, đìu hiu và lệ ngàn hàng. Bằng biện pháp nghệ thuật nhân hóa rặng liễu đứng
ven hồ được ví von như một mĩ nữ với vẻ đẹp mĩ miều tha thướt. Đúng là một vẻ
đẹp liễu yếu đào tơ. Tuy nhiên mĩ nữ ấy cao sang là vậy nhưng mang một nét buồn
lãng mạn. Những cành liễu buông xuống hồ giống như là làn tóc dài mềm mượt
của người con gái, rồi nó lại giống như những giọt nước mắt buồn của người con
gái ấy. Vậy nên cao sang mà buồn, buồn nhưng lại đẹp. Rõ ràng liễu không giống
như những giọt nước mắt mà ta cảm nhận được liễu đang khóc, để tang cho một
mùa hè rực rỡ đi qua. Điệp ngữ “đây mùa thu tới” như thể hiện được một tiếng reo
vui trước bước đi của mùa thu. Phong cảnh khởi sắc với màu áo mới đó là màu áo
mơ phai chỉ có mùa thu mới có.
Như vậy qua khổ thơ đầu ta thấy rõ được những tín hiệu mùa thu đang tới tác

giả thì han hoan vui mừng trước sự thay đổi của đất trời. Mùa thu đến cây lá
đương xanh bỗng nhiên thay áo mới, nó khoác lên mình một chiếc áo với muôn
nghìn lá vàng. Bằng con mắt quan sát tinh tế Xuân Diệu đã miêu tả những bước
chân đầu tiên của mùa thu đến đẹp nhưng đượm buồn.
Sang khổ thơ thứ hai chúng ta nhận thấy rằng khi tiết trời sang thu theo quy
luật tự nhiên mọi vật đều chuyển sang phai tàn rơi rụng. Xuân Diệu đã cảm nhận
được mùa thu đến đã in lên sắc hoa màu lá:
“Hơn một loài hoa đã rụng cành
Trong vườn sắc đỏ rủa màu xanh
Những luồng run rẩy rung rinh lá
Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh”
Ở đây nhà thơ không dùng những từ như “dăm ba”, “năm bảy” mà lại dùng
cụm từ “hơn một loài hoa’ để chỉ cho sự tàn phai của hoa lá. Cụm từ ấy có nghĩa là
một vài, đã mấy nhưng cũng phải là nhiều. Đây là cách nói rất Tây của Xuân Diệu.
tuy nhiên dù nhiều hay ít thì ta cũng thấy được những bước chảy trôi của thời gian
của thiên nhiên đất trời. Có thể nói câu thơ mang đến mọt nỗi buồn lớn, gây ấn
tượng mạnh về sự rơi rụng. Hoa vốn là biểu tượng của cái đẹp thế mà mùa thu tới
cái đẹp lại tàn phai rơi rụng gây cảm giác tiếc nuối mất mát trong lòng người.
những cành hoa ấy đã rụng và trong vườn được thay đổi bằng những màu đỏ vàng
của cây lá. Động từ “rủa” thể hiện sự ngấm dân , gặm dần từng chút một màu xanh
tươi của lá, thay vào đó sắc đỏ vàng đặc trưng của mùa thu. Ta thấy nhà thơ miêu
tả thật chính xác tinh vi quá trình chuyển hóa màu sắc. Qua đây người đọc cảm
nhận được bước chân thu đi thật nhẹ nhàng, êm ái mà không kém phần bền bỉ
mãnh liệt. trong khi ấy những cái lạnh của thời tiết cũng được nhà thơ nhắc đến.
Với biện pháp nghệ thuật điệp phụ âm đầu “run rẩy rung rinh” đã mang đến cho
người đọc cái cảm giác se lạnh của mùa thu. Mùa thu đến cây cối đang xanh tươi
tràn trề nhựa sống thay vào đó sự khô gầy, héo úa tàn tạ. Nó gợi lên một vẻ đẹp
nhẹ nhàng mong manh của mùa thu. Nó giống như những bộ xương khô gầy yếu
ớt và đơn độc. Nhà thơ cảm nhận mùa thu bằng thị giác , cảm giác, xúc giác.

Dường như thi sĩ còn mang đến cho cảnh thu cái xôn xao run rẩy của lòng mình.
Nếu như khổ thơ một thời gian đến đầu tiên, khổ hai thời gian đến mãnh liệt
hơn thì sang khổ ba thời gian đến thật quyết liệt:
“Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ
Non xa khởi sự nhạt sương mờ
Đã nghe rét mướt luồn trong gió
Đã vằng người sang những chuyến đò”
“Nàng trăng tự ngẩn ngơ”. tác giả nhân hóa trăng thu như nàng thiếu nữ tự
ngẩn ngơ, không hiểu nỗi lòng mình. Đó là cái ngẩn ngơ rất thu, nhỏ nhoi, mờ nhạt.
Trong tiết trời thu ấy những ngọn núi trong sương sớm “khởi sự” trước sự mờ nhạt
của sương mờ. Có thể cảm nhân được những gì của mùa thu đều mang đên sự
bàng bạc mơ hồ, phai tàn. Tiếp đến câu thơ thứ ba nhà thơ sử dụng nghệ thuật
chuyển đổi cảm giác. Cái rét mướt kia được cảm nhận qua cảm giác chứ không
phải là thính giác thế nhưng tác giả đã rất lạ ở chỗ đó. Chính nghệ thuật ấy làm
cho chúng ta cảm nhận được cái rét mướt gợi lên thật trực tiếp, thật gần gũi. Đồng
thời nó giúp cho người đọc cảm nhận được cái rét vốn vô hình giờ đây lại trở nên
hữu hình, cụ thể có thể nghe và nắm bắt được. Hình ảnh con người được xuất hiện
trong câu thơ thứ tư nhưng đó không phải là cảnh đông đúc mà chúng ta vẫn hay
nghĩ đến con người mà đó là những hình ảnh thưa thớt. Biện pháp nghệ thuật đảo
ngữ đã cho thấy được sự quạnh quẽ, vắng vẻ hoang vu trên mỗi chuyến đò bến đò.
Thu đang đến mà như đã sắp qua để nhường cho mùa xuân cạn kề. cảnh vật trong
khổ thơ được miêu tả từ trên cao xuống dưới trong trạng thái lạnh lẽo tàn phai. Nó
khắc họa bước đi nghiệt ngã của thời gian.
Trong bức tranh thu ấy không chỉ là ngoại cảnh mà còn là tâm cảnh nỗi buồn.
Thu buồn dương liễu. thu hoa lá, buồn trăng mờ tụ thành một trời thu uất hận và
kết tụ trong lòng người:
“Mây vẩn tầng không chim bay đi
Khí trời u uất hận chia ly
Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói

Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì”
Ở hai câu đầu sự chia ly diễn ra trong lòng cảnh vật. Chim bay đi tránh rét, nỗi
buồn chia ly ngập tràn không gian tạo thành một nỗi sầu hận u uất. Nêu như nhà
thơ bắt đầu bằng hình ảnh cây liễu giống như cô gái thì kết thúc bài thơ tác giả
cũng nhắc đến hình ảnh cô gái. Cô gái ấy đang làm gi?, cô ngồi tựa cửa mà nhìn xa,
đó là cái nhìn vào cõi vô vọng, cái nhìn xa xăm những thứ hiện ra trước mắt thì
không thấy mà chỉ thấy những gì trong tâm trí đang hiện ra. Cô thiếu nữ ấy đang
buồn không nói tựa cửa trông xa để nghĩ ngợi.
Bài thơ có kết cấu mở, người thiếu nữ buồn không nói, phải chăng đó là cái
buồn vô cớ. Nhưng vô cớ mà lại thành có cớ khi cảm nhận được bước đi nghiệt
ngã của thời gian. Hóa ra thu vừa mới đến mà đã vội vã ra đi để nhường chỗ cho
mùa đông rầm rập kéo về.
Đây mùa thu tới là một bức tranh thu đẹp mà buồn của một hồn thơ gắn bó hết
mình với cuộc sống để có thể lắng nghe được những biến thái tinh vi của thời gian
cũng như nội tâm con người. với thi phẩm này Xuân Diệu đã để lại một ấn tượng
khó phai trong kho tàng thu của thi ca.
Bài tham khảo 3
Xuân Diệu được coi là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới. Đề tài mà
Xuân Diệu hướng đến không có gì là xa lạ mới mẻ, ông cảm nhận thiên nhiên
trước một nỗi niềm xôn xao bắt nguồn từ cái buồn cô đơn, từ sự khát khao giao
cảm với đời chỉ thực sự xuất hiện trong ý thức cá nhân sâu sắc của các nhà thơ mới.
Tác phẩm Đây mùa thu tới là một tác phẩm như vậy.
Tác giả đã vẻ lên hình tượng mùa thu với dáng vẻ của một thục nữ mỹ miều
tha thướt và u buồn, đẹp một vẻ dẹp lãng mạn, cao sang. Nàng thu của Xuân Diệu
đang nhón gót trên đường biên của phút giao mùa, từ hạ sang thu.
Tác giả đã cảm nhận không khí của mùa thu qua dáng vẻ của rặng liễu bên hồ:
Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng
Liễu đã xuất hiện nhiều trong thơ ca với những hình ảnh đẹp, thướt tha, trong

Truyện Kiều: “Dưới cầu nước chảy trong veo - Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt
tha”. Liễu của Xuân Diệu gay gắt hơn: “chịu tang” - một cảm nhận bất ngờ, đẫm
màu tang tóc. Song bất ngờ mà vẫn đúng. Lá liễu được so sánh thật tầng lớp, biến
hóa: vừa đổ xuống song song như sóng tóc giai nhân, vừa tuôn chảy như dòng lệ
ướt. Để nhấn mạnh nỗi tang tóc, Xuân Diệu còn đưa ra một loạt từ láy ầm: “đìu
hiu”, “buồn buông”, khiến câu thơ càng bị ru thêm vào một âm điệu thê lương,
chua xót.
Một lần nữa, tác giả đã khẳng định, rặng liễu đã báo hiệu mùa thu tới
Đây mùa thu tới, mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng.
Câu thơ vừa như một tiếng reo vui mừng, vừa như một tiếng thở dài, trong
tiếng thở dài có tiếng reo thầm, vì mùa thu đâu chỉ mang tới cái buồn lạnh, mà còn
chứa đựng cả cái xôn xao của sự sống. Đến câu cuối, mùa thu hiện hình cụ thể hơn
“Với áo mơ phai dệt lá vàng”. Hình ảnh thật diễm ảo: mùa thu nhuộm vàng cả đất
trời, hay đất trời dệt áo vàng khoác lên nàng thu? Nàng thu bỗng trở nên đẹp lộng
lẫy, sang trọng, nhưng nếu tinh ý, ta sẽ nhận ra đó là vẻ đẹp sắp tàn, khiến tiếng
reo trong câu thơ ngầm chứa sự thảng thốt lo âu. Cái đẹp xao xác buồn này sẽ định
hướng cảm xúc toàn bài, cũng là một khuynh hướng thẩm mĩ quen thuộc của Thơ
mới. (Lưu Trọng Lư từng viết: “Em không nghe mùa thu - Lá thu kêu xào xạc Con nai vàng ngơ ngác - Đạp trên lá vàng khô”. Đẹp quá, mà sao câu thơ như
muốn khóc).
Tác giả đã bắt đầu chú ý hơn đến những gì gần gũi xung quanh mình, và điểm
bắt đầu là vườn thu.
Hơn một loài hoa đã rụng cành
Trong vườn sắc đỏ rủa màu xanh
Những luồng run rẩy rung rinh lá
Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh.
Mùa thu xuất hiện trọn vẹn trong khu vườn mà tác giả đang là trung tâm. Tác
giả đã nhận ra một mùa thu buốt lạnh đang bòn rút sự sống của cỏ cây hoa lá, tức

là của tạo hóa. Ở câu 2 có một từ đắt: “rủa”, đồng nghĩa với “lấn” (Lá đỏ lấn lá
xanh), nhưng, đổi sang “lấn” thì hiệu quả khác hẳn. “Lấn” gợi một hiện tượng
thiên nhiên, thiên về miêu tả thực tế. “Rủa” thiên về biểu hiện nội tâm, nên mạnh
hơn, nhói buốt hơn, tạo một cảm nhận bỏng rát, đau đớn trước sự tàn phá nghiệt
ngã của thiên nhiên. Nguyễn Gia Thiều cũng tùng có một câu thơ dữ dội như thế:
“Sương như búa bổ mòn gốc liễu” (Cung oán ngâm khúc).
Trong sự trầm tư suy nghĩa về mùa thu, nhà thơ nhận thấy gió cũng như là vật
hữu hình. Ngọn gió thổi ra từ cổ thi từng rất buồn: “Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu”
(Thu vịnh - Nguyễn Khuyến), nhưng là cái buồn trong tiếng thở dài yếu ớt. Gió
Xuân Diệu run lên bần bật bởi 4 phụ âm “r” (run rẩy, rung rinh) làm câu thơ buốt
đến tái tê. Vũ Quần Phương quả là tinh tế khi cho răng hiệu quả câu thơ không chỉ
tả gió mà còn gọi rét. Hình ảnh cành cây trong ca dao cũng rất đắm say: “Gió đưa
cành trúc la đà”.

Nguyễn Khuyến đã ghê, gọt nhỏ cái “cành” trong ca dao thành

cái “cần” trong Thu vịnh (Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu). Xuân Diệu lại đẩy tiếp
“cần” của Nguyễn Khuyến thành “nhánh” và “xương” đầy chất tạo hình, gây ấn
tượng thị giác rất mạnh: chạm khắc vào trời thu hình ảnh cây cối quắt queo như dẻ
xương gầy. Mùa thu héo quắt thêm trong hồn thơ Xuân Diệu.
Càng ngắm khung cảnh trời thu, tác giả lại càng có trạng thái u uất hơn, trùm
lên cả đất trời rộng lớn. Điều độc đáo là Xuân Diệu xen kề đất và trời thành những
cặp đôi song song đi suốt hai khổ thơ cuối.
Bầu trời hiện lên trước mắt nhà thơ thật đẹp có trăng, mây và chấp chới cánh
chim. Câu thơ tả trăng có một âm điệu rất hay: “Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn
ngơ”. Câu chữ và hình ảnh ngồ ngộ, ngơ ngác thế nào. Sao lại “thỉnh thoảng”? Sao
lại “tự ngẩn ngơ”? Hoài Thanh bắt rất tinh đặc điểm này của Xuân Diệu: “Ngay lời
văn của Xuân Diệu cũng có vẻ chơi vơi. Xuân Diệu viết văn tựa như trẻ con học
nói hay người ngoại quốc mới võ vẽ tiếng Nam. Câu văn tuồng bỡ ngỡ. Nhưng cái
dáng bỡ ngỡ ấy chính là chỗ Xuân Diệu hơn người”. Đúng thế. Đọc kĩ, mới thấy
câu thơ Xuân Diệu rất tinh và rất nghịch, vì nó đột ngột “bắt quả tang” một trạng
thái mơ màng, ngơ ngẩn của nàng trăng. Có điều, Xuân Diệu bắt quả tang thiên

nhiên hay chính cõi lòng mình? Từ cánh chim trốn rét, Xuân Diệu chợt hốt hoảng
khi nhận ra điều đáng sợ đang xảy ra giữa đất trời: “Khí trời u uất hận chia li”. Nỗi
đau li tán dằn xuống trong thanh trắc của chữ “hận” như tiếng nấc trước một vũ trụ
dường như trống rỗng.
Khung cảnh mùa thu đã làm cho con người và vạn vật đều buồn, bầu trời và
mặt đất đều có chung tâm trạng buồn:
Đã nghe rét mướt luồn trong gió
Tác giả đã dùng từ “luồn” thật tinh diệu, gợi cho người đọc có cảm giác nhìn
thấy được cái rét mướt đang hiện hữu hình. Đúng là cái rét đang tàng hình trong
tiết chớm thu, mà chỉ người nghệ sĩ - vốn là nhà bác học của các giác quan mới
phát hiện được. Nhưng hình ảnh con người đột ngột xuất hiện trong hai câu kết
mới là cái nấc cao nhất của cảm giác thu Xuân Diệu:
Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói
Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì?
Nàng thu hiện lên trong bóng dáng của một nàng thiếu nữ đẹp. Tất cả cảm giác
thu quy tụ vào đây. Thơ Xuân Diệu dẫu có nói trời mây non nước gì cuối cùng
cũng kết lại nơi con người, nơi tuổi trẻ, nơi những thiếu nữ vừa chạm bước vào
ngưỡng cửa cuộc đời, vừa ngơ ngác vừa khao khát - khao khát yêu đương, khao
khát giao cảm với cuộc đời rộng lớn. Hai câu thơ man mác trong trạng thái mơ hồ
không xác định, rất hợp với tâm hồn bâng khuâng của lứa tuổi này; con số không
xác định (ít nhiều), nỗi buồn thầm lặng không duyên cớ (buồn không nói).
Bức tranh thu của Xuân Diệu là sự thám hiểm phút chuyển mình cũ mà mới
mẻ của thời gian từ hè sang thu, từ nóng sang lạnh bằng những giác quan tinh tế
(thị giác, xúc giác), tạo những rung động thâm mĩ. Đó là một cống hiến quý báu
của thi sĩ trong việc khám phá thiên nhiên bằng nghệ thuật thơ ca. Linh hồn bức
tranh là một tình thu buồn vắng cô đơn. Thứ nhất, do trạng thái riêng của mùa thu.
Thu không ồn ào như hạ, tê tái như đông, tươi tắn như xuân mà êm lắng u sầu một
cách mơ màng, dễ gợi hồn thơ hướng nội. Thứ hai, nỗi buồn thu gặp nỗi sầu tuổi
trẻ của thời vong quốc, ngơ ngác trước ngưỡng cửa vào đời, càng khao khát nhập

vào đời càng bị đẩy vào cô đơn. Cái lạnh thu là cái lạnh của linh hồn cô đơn đang
“thả ra những tiếng thở dài để gọi nhau” (Xuân Diệu). Giá trị nhân bản của bài thơ
là ở nỗi buồn trong sáng ấy.
Đây mùa thu tới gợi cho người đọc cảm nhận được mùa thu đẹp mà buồn. Bài
thơ thể hiện sự mới mẻ cả nghệ thuật và nội dung, thể hiện sự cô đơn, niềm khát
khao giao cảm với đời của nhà thơ.