So sánh, đối chiếu hệ thống nguyên âm trong tiếng anh và tiếng việt.

  • doc
  • 12 trang
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÙNG VƯƠNG TP. HCM
KHOA NGOẠI NGỮ
LỚP 10AV2

NGÔN
NGỮ
HỌC ĐỐI CHIẾU
CHỦ ĐỀ:
SO SÁNH, ĐỐI CHIẾU HỆ THỐNG NGUYÊN
ÂM TRONG TIẾNG ANH VÀ TIẾNG VIỆT.
GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN:

TÔ ĐÌNH NGHĨA

DANH SÁCH THÀNH VIÊN:
1. PHẠM THÙY DUNG
2. TRẦN ANH THƯ
3. NGUYỄN THỊ TRÚC TUYỀN
4. HUỲNH THỊ MỘNG TUYỀN
5. PHẠM THỊ THÚY HẰNG
6. NGUYỄN KHƯƠNG DUY
7. NGUYỄN ĐAN KHA

NGÀY 01-03-2012

MỞ ĐẦU:
Phát âm là một vấn đề thường xảy ra với người Việt Nam khi học
tiếng Anh. Nhiều người đã gặp phải khó khăn trong việc phát âm tiếng
Anh, do đó họ cũng gặp khó khăn trong việc nghe và nói tiếng Anh, vì
muốn nghe chính xác thì ta phải phát âm cho thật chính xác. Vì vậy 2 kĩ
năng này rất quan trọng đối với học sinh, sinh viên khi chúng ta bắt đầu
làm việc trong môi trường sử dụng tiếng Anh, và cần phải nhận thức
được những sai sót trong việc phát âm để chỉnh sửa và hoàn thiện.
Bài thuyết trình hôm nay của nhóm chúng tôi nhằm mục đích so
sánh, đối chiếu hệ thống nguyên âm tiếng Việt với tiếng Anh để từ đó rút
ra được những điểm tương đồng và khác biệt giữa 2 ngôn ngữ cũng như
có những giải pháp và khuyến nghị trong việc thụ đắc ngôn ngữ đích
(Tiếng Anh).
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ HỆ THỐNG NGUYÊN ÂM
TRONG NGÔN NGỮ ANH VÀ NGÔN NGỮ VIỆT.
Nguyên âm trong tiếng Anh và tiếng Việt.
Nguyên âm là gì? Chúng ta sẽ tìm hiểu nó, không đơn giản là đưa
ra định nghĩa chính xác nó có nghĩa gì. Theo từ điển Oxford Advanced
Learner, nguyên âm là những âm mà khi ta phát âm, dựa vào độ mở của
miệng, hình dáng của môi và độ nâng của lưỡi mà không có sự cản trở
nào của răng, hoặc các bộ phận khác của miệng vv…, (Hornby, 2005,
p.1648). Thông thường ta thấy rằng “nguyên âm là những âm khi ta phát
âm ra, luồng hơi từ thanh quản đi ra môi không có sự cản trở nào”
(Roach, 1991, p.18). Cũng có người cho rằng, nguyên âm là những âm
tiết cốt lõi, đỉnh điểm. Cái định nghĩa này thì có tính khoa học hơn. Trên
thực tế, một âm tiết có thể được bao gồm bởi chỉ 1 nguyên âm, ví dụ như
từ “eye”. Như một sự lựa chọn, nguyên âm có thể được bao vây một hoặc
cả hai bên bởi các phụ âm, ví dụ như từ may, ants and faith. Những mô tả
đó có thể giúp chúng ta phân biệt được nguyên âm với phụ âm, bởi trong
nguyên âm có sự cản trở của luồng khí khi âm thanh được tạo ra. Để nhận
ra âm thanh của nguyên âm từ nhiều cách khác nhau, chúng ta dựa vào
những phần mà lưỡi chạm vào (trước, giữa, sau) và độ cao của lưỡi khi
âm thanh được tạo ra (cao, trung, thấp).
1.1 HỆ THỐNG NGUYÊN ÂM TRONG NGÔN NGỮ ANH.
Nguyên âm trong tiếng Anh được mô tả dựa vào bốn nhân tố (tiêu
chí): (1) độ dài của nguyên âm, (2) vị trí của lưỡi, (3) bộ phận của lưỡi,
(4) độ tròn của môi (hình dáng của môi). Trong tiếng Anh có 11 nguyên
âm đơn, bao gồm 5 nguyên âm dài và 6 nguyên âm ngắn (Roach, 1991,
pp.27-36).

1.1.1 ĐỘ DÀI CỦA NGUYÊN ÂM.
Nguyên âm được phân loại nguyên âm ngắn và dài, dựa vào độ
dài của nguyên âm.
Nguyên âm dài gồm có /ɑ:/, /ɔ:/, /u:/, /Ɛ:/, và /i:/. Nguyên âm ngắn
gồm có /I/, /e/, /æ/, /ʌ/, /ɔ/ và /ʊ/.
1.1.2 ĐỘ NÂNG CỦA LƯỠI.
Nguyên âm trong tiếng Anh có thể được phân ra nguyên âm cao,
trung và thấp, phụ thuộc vào vị trí của lưỡi. Vậy thì, chúng ta có các
nguyên âm cao như: /i:/, /I/, /u:/ và /ʊ/; nguyên âm trung /e/, /ə/, /Ɛ:/, /ʌ/,
và /ɔ:/; nguyên âm thấp /æ/, /ɑ:/, và /ɔ/.
1.1.3 VỊ TRÍ CỦA LƯỠI
Nguyên âm cũng được phân ra như trước, giữa, và sau, phụ thuộc
vào độ xa hoặc vị trí sau của lưỡi và phần lưỡi chạm vào. Với sự phân
loại như thế này, chúng ta có nguyên âm trước /i:/, /I/,/e/, và /æ/; Nguyên
âm giữa /ə/, /Ɛ:/, /ʌ/; Nguyên âm sau /ɑ:/, /ɔ:/ ɔ/, /u:/, và /ʊ/.
1.1.4 ĐỘ TRÒN MÔI.
Thêm vào đó, nguyên âm được mô tả bởi hình dáng của môi hoặc
độ bành của miệng xảy ra khi phát âm rõ ràng. Chúng gồm nguyên âm
bành /i:/, /I/,/e/, và /æ/; nguyên âm trung lập /ə/, /Ɛ:/, /ʌ/; và nguyên âm
tròn /ɑ:/, /ɔ:/ ɔ/, /u:/, và /ʊ/.
Để miêu tả thêm rõ hơn, ta có bảng biểu đồ nguyên âm tiếng Anh
như sau:

Nguyên âm
tiếng Anh
được tóm lại như sau (bao gồm 4 nhân tố):
i: nguyên âm dài cao trước đóng bành, ví dụ: she /∫i:/
I: nguyên âm ngắn cao trước đóng bành, ví dụ: hit /hIt/
e: nguyên âm ngắn trung trước bành, ví dụ: send /send/
æ: nguyên âm ngắn thấp trước mở bành, ví dụ: hat /hæt/
u: nguyên âm dài cao sau đóng tròn, ví dụ: loose /lu:s/
ʊ: nguyên âm ngắn cao sau đóng tròn, ví dụ: book /bʊk/
ɔ: nguyên âm dài trung sau tròn, ví dụ: saw /sɔ:/
ɔ: nguyên âm ngắn thấp sau mở tròn, ví dụ: hot /hɔt/
ɑ: nguyên âm dài thấp sau mở tròn, ví dụ: far /fɑ:(r)/
Ɛ: nguyên âm dài trung giữa trung lập, ví dụ: verb /vƐ:b/
ə: nguyên âm ngắn trung giữa trung lập, ví dụ: banana /bə'nɑ:nə/
ʌ: nguyên âm ngắn thấp giữa mở trung lập, ví dụ: money /'mʌnI/
Ngoài những nguyên âm đơn, tiếng Anh còn có một số lượng lớn
của những nguyên âm đôi - khi phát âm, đi từ âm điệu của 1 nguyên âm
này đến một nguyên âm khác. Một nguyên âm mà bất biến và không bị
thay đổi được gọi là một nguyên âm thuần túy, hoặc nguyên âm đơn.

Trong tiếng Anh, có 8 nguyên âm đôi được chỉ ra dưới đây:
Nguyên âm tiếng Anh cũng có các loại nguyên âm được gọi là
tam điê ̣p âm. Tam điê ̣p âm là những từ có âm điệu di chuyển từ một
nguyên âm khác đến một nguyên âm thứ ba. Những âm điệu đó di chuyển
một cách nhanh chóng và không bị gián đoạn.Tam điê ̣p âm có được là vì
nó bao gồm 5 nguyên âm đôi đóng được kết hợp với ə .Vì vậy chúng ta
có 5 tam điê ̣p âm:

1.2
HỆ
THỐNG
NGUYÊN
ÂM
TRONG
NGÔN
NGỮ VIỆT.
1.2.1 KHÁI NIỆM:
Nguyên âm trong tiếng Việt:
Việt Nam có ba loại nguyên âm, bao gồm nguyên âm sắc (phía
trước): i, e, ɛ, ɛ, trầm nhẹ: ɯ, ɤ, ɤ, a, a, trầm(back): u, o, ɔ, ɔ. Các nguyên
âm này được trình bày trong biểu đồ 2:

1.2.2 SỐ LƯỢNG:
Theo Đoàn Thiện Thuật, tiếng Việt có 13 nguyên âm đơn, trong đó có 10
nguyên âm dài và 3 nguyên âm ngắn (1977). Nguyên âm dài là i, e, ɛ, a, ă, ɔ, o,
ɤ, u, ɯ; nguyên âm ngắn arěɛ(anh ách), ɔ (ong óc), ɤ̌(tân, thân). Ngoài
nguyên âm đơn, tiếng Việt có ba nguyên âm đôi là ie, ɯə and uo.
Về thay đổi âm sắc, nguyên âm tiếng Việt cũng như các nguyên âm tiếng
Anh , có một số nguyên âm âm sắc cố định, một số nguyên âm thay đổi âm sắc.
Biểu đồ dưới đây cho thấy cố định nguyên âm, âm sắc trong cả hai ngôn ngữ:
Trong cả tiếng Việt và tiếng Anh, nguyên âm đôi là nguyên âm

thay đổi âm sắc của chúng.

Sự phân bổ nhị trung âm, âm đôi trong tiếng Việt chủ yếu là âm
giữa, ví dụ như /ie/ -iê, yê, ia, ya (hiền, miền, tiên), /ɯɤ/ -ươ, ưa (hươu,
thưa, thương), /uo/ -uô, ua (uống thuốc, lúa úa ).
@ Lưu ý: Tiếng Việt có 14 nguyên âm nhưng có thể có 19 cách
viết khác nhau.

1.2.3

PHÂN TÍCH - MIÊU TẢ NGUYÊN ÂM:
A. Độ mở của miệng:(dòng trước giữa sau)
+ hẹp [u;i] ;
+ rộng [a];
+ trung bình [ê;e;o;ô]

B. Độ nâng của lưỡi:
+ cao[i;u] ;
+ trung bình [ ê;ô;e]
C. Hình dáng của môi:
+ tròn môi:[u,ê,ô,e,o,a]
+ không tròn môi[i]
CHƯƠNG 2: NÉT TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA
HỆ THỐNG NGUYÊN ÂM TIẾNG ANH VÀ TIẾNG VIỆT.
2.1 NÉT TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT.
Từ những so sánh trên, tôi sẽ chỉ ra một vài điểm giống và khác
nhau giữa những nguyên âm tiếng Anh và tiếng Việt. Tiếng Việt có nhiều
nguyên âm dài và ngắn hơn tiếng Anh. Tuy nhiên, tổng số lượng nguyên
âm bao gồm nguyên âm đơn, đôi và cả nguyên âm ba trong tiếng Anh thì
nhiều hơn trong tiếng Việt. Trong khi tiếng Việt có 16 nguyên âm thì
tiếng Anh có tới 24. Cả tiếng Việt và tiếng Anh đều có chung ba nguyên
âm đơn là: /i/ trong từ “sit”, /e/ trong “egg” và /u/ trong “would”. Thêm
vào đó, là ba cách phát âm tương đối giống nhau, tiếng Việt gồm 4
nguyên âm ngắn : /e/ trong tên “name,” /ɯ/ trong mừng “happy,” /ɤ/
trong lớn “big,” /ɤ̆/ trong tân “new” và ba nguyên âm đôi /ie/ trong miền
“region” /uo/ trong uống “drink” và /ɯɤ/ trong hướng “direction”.
Điểm khác biệt thứ hai là tiếng Anh có rất nhiều nguyên âm ba
trong khi tiếng Việt chỉ có một vài loại nguyên âm ba này. Nó gây ra khó
khăn cho người học tiếng Anh bởi vì chúng được phát âm nhanh cho nên
người học khó có thể phân biệt được chúng.
Về cấu tạo nguyên âm đôi,các nguyên âm đôi trong tiếng Việt hầu
hết là âm giữa trong khi nguyên âm đôi trong tiếng Anh được cấu tạo là
âm giữa (iə,eə,υə) hoặc là âm khép (ei,ai,oi, əυ,aυ).
Kế tiếp, tôi sẽ đối chiếu 1 vài nguyên âm đặc biệt trong cả tiếng
Việt và tiếng Anh. Sinh viên lưu ý không nên mắc phải nhầm lẫn giữa /u/
trong tiếng Việt và /ʊ/ trong tiếng Anh. Âm /ʊ/ trong tiếng Anh khi phát
âm sẽ tròn môi hơn và lưỡi sẽ cuốn về sau nhiều hơn âm /u/ trong tiếng
Việt. Nhiều học sinh không biết sự khác nhau này vì vậy họ phát âm /ʊ/
trong Tiếng Anh cũng giống như trong tiếng Việt. Trong tiếng Anh và
tiếng Việt, âm /i/ mặc du nhìn giống nhau nhưng, trong tiếng Anh nó
được phát âm ngắn hơn và khép dần về trước hơn là /i/ trong tiếng Việt.
Đó là những điểm khác nhau khi chúng ta phát âm những nguyên âm đôi
này. Ngoài ra sinh viên còn bối rối với âm /e/. Nguyên âm /e/ là âm giữa
trong tiếng Anh, nhưng nó lại là âm cao trong tiếng Việt. Cả hai đều là
nguyên âm trước nhưng âm /e/ trong tiếng Anh lưỡi cuốn về sau cuống
họng nhiều hơn. Lưu ý trong tiếng Anh khi ta phát âm âm /e/, người học
nên đặt lưỡi thấp hơn và cuốn về sau hơn là khi ta phát âm nó trong tiếng
Việt. Một nguyên âm nữa mà sinh viên hay mắc phải lỗi là âm /ɔ/ trong
khi phát âm giữa tiếng Việt và tiếng Anh. Âm/ ɒ/ trong tiếng Anh là âm
tròn môi và hạ hàm, trong khi âm /ɔ/ trong tiếng Việt là âm tròn môi hàm

ở vị trí thấp vừa. Tuy nhiên, âm /ɒ/ được phát âm tròn môi hơn và lưỡi
cuộn về sau nhiều là âm /ɔ/. Vì thế, chúng được phát âm hơi khác nhau
khi người ta phát âm. Và điều cuối cung là âm /a/ trong tiếng Việt và /a:/
trong tiếng Anh. Khi âm /a:/ được phát âm, nó sẽ là âm tròn môi, hàm
thấp hơn,dài hơn và lưỡi cuốn về sau nhiều hơn là âm /a/ trong tiếng Việt.
Tôi đã so sánh những nguyên âm tiếng Việt và tiếng Anh qua số
lượng nguyên âm, vị trí và cách cấu thành trong bộ máy phát âm và một
vài nguyên âm đặc biệt hay gây khó khăn cản trở việc hoc tiếng Anh đối
với người Việt. Cuối cung, tôi xin đưa ra một vài gợi ý cho người Việt
hoc tiếng Anh và cho việc giảng dạy tiếng Anh ở trường Trung học Cơ
sở.

CHƯƠNG 3: CÁC GIẢI PHÁP, KHUYẾN NGHỊ TRONG
VIỆC THỤ ĐẮC NGÔN NGỮ ANH.
Thứ nhất, giáo viên nên giới thiệu các âm trước khi để cho sinh
viên của họ thấy ký tự. Sinh viên nên lắng nghe những âm thanh đầu
tiên trước khi làm quen với chúng và sau đó thực hành phát âm các âm
thanh nhiều lần trong lời nói và trong câu.
Thứ hai, các tính năng "dài" và "ngắn" của các nguyên
âm có thể gây ra một số khó khăn trong cả tiếng Anh và tiếng Việt. Giáo
viên nên sử dụng các cặp nguyên âm tối thiểu khi giảng dạy phát âm để
cho học sinh phân biệt được sự khác biệt giữa hai âm (nguyên âm ngắn
và nguyên âm dài) . Ví dụ, /i:/ và /i/, /u:/ và /ʊ/, /ɔ/ và /ɔ:/ cần được đặt
trong các bài tập phát âm cho sinh viên thực hành. Sau đó, giáo
viên nên phân biệt một số âm mà sinh viên hay bị nhầm lẫn với âm tiếng
Việt như đã trình bày ở trên để làm cho học sinh nhận thức được sự khác
biệt giữa các âm thanh.
Thứ ba, khi phát âm các nguyên âm đôi trong tiếng Anh, sinh
viên Việt Nam có xu hướng nhấn mạnh vào nguyên âm đầu tiên mà sẽ
gây ra "giọng nước ngoài" (Lê Quang Thiêm, Nghiên Cứu Đối Chiếu Các
Ngôn Ngữ 2004,p.88) hoặc họ chỉ phát âm nguyên âm đầu tiên trong âm
đôi và không phát âm nguyên âm thứ hai trong âm đôi. Đối với lỗi
này, giáo viên nên chỉ cho sinh viên của họ làm thế nào để phát
âm các âm đôi và nguyên âm đơn.
Giáo viên cần phải phân biệt cho sinh viên của họ rằng nguyên
âm đôi bao gồm hai nguyên âm. Với nguyên âm ba, giáo viên cần phải
cung cấp cho sinh viên nhiều bài tập nghe để luyện tập phát âm
theo và nhấn mạnh làm thế nào để phát âm chính xác và cách để phân biệt
nguyên âm đôi và nguyên âm đơn.
Biểu đồ nguyên âm trong tiếng Việt và tiếng Anh cũng rất hữu
ích trong việc giải thích sự khác biệt giữa các nguyên âm. Từ biểu
đồ nguyên âm, sinh viên có thể nhìn thấy vị trí của các nguyên âm và với
lời giải thích của giáo viên biết làm thế nào để phát âm chúng một cách
chính xác .
Sự cần thiết cho một giáo viên là kiên nhẫn với mức độ phát âm
chính xác của người học phát âm, ngay cả khi học sinh tiến bộ chậm lúc
đầu. Giáo viên nên chú ý đến độ chính xác của phát âm ở mức độ tiên
tiến hơn của tiếng Anh khi một học viên đã đạt được kiến thức từ vựng
và ngữ pháp, hoặc họ có thể bị mất các kỹ năng ngữ âm và phải bắt đầu
lại từ đầu.
Giáo viên cần tạo một số hoạt động hoặc trò chơi thú vị để làm
cho các bài học phát âm thêm thú vị hơn. Học sinh sẽ học được nhiều
hơn nếu họ học các nguyên âm ấy với động lực cao và dễ dàng tiếp thu.
Điều cuối cung là học sinh cần biết một số kiến thức về âm trong

cả tiếng Việt và tiếng Anh để được nhận thức về sự khác biệt của
chúng để khi họ phát âm, sẽ phát âm chúng một cách chính
xác. Giáo viên là người có trách nhiệm cung cấp kiến thức cho sinh
viên của họ qua những buổi học phát âm.
CHƯƠNG 4: NHẬN XÉT
Sau khi nghiên cứu về hệ thống nguyên âm tiếng Anh và tiếng
Việt, nhóm sinh viên chúng tôi xin đưa ra một vài nhận xét riêng:
Tiếng Anh thuộc loại hình ngôn ngữ khuất chiếc, và phân tích tính
còn tiếng Việt thuộc loại hình ngôn ngữ đơn lập và tổng hợp tính.
Trong tiếng Anh, số lượng nguyên âm thì ít hơn tiếng Việt do đó
để cân bằng trong hệ thống nên nó có nhiều biến thể. Còn tiếng Việt, số
lượng nguyên âm nhiều, nhưng ổn định, (nguyên âm đôi, ba + cách viết).
Trong tiếng Anh trọng âm đóng vai trò rất quan trọng, trong tiếng
Việt có trọng âm nhưng không quang yếu.
Âm tiết trong tiếng Việt và âm đơn tiết, nhưng trong tiếng anh thì
là đơn và đa tiết.
Tiếng Việt không có ngữ điệu , còn trong tiếng Anh thì ngữ điệu
lại góp phần tạo nên những sắc thái ý nghĩa khác nhau.

* TÀI LIỆU THAM KHẢO.
o Đoàn Thiện Thuật. (1977). Ngữ Âm Tiếng Việt. Hanoi: University and
Vocational College Publisher.
o Lê Quang Thiêm. (2004). Nghiên Cứu Đối Chiếu Các Ngôn Ngữ.
Hanoi: Hanoi National University Publishing House.
o Hornby, A S. (2005). Oxford Advanced Learner’s Dictionary. Britain:
Oxford University Press.
o Roach, Peter. (2001). English Phonetics and Phonology. Britain:
Cambridge University Press.
o http://www.kilobooks.com/
o http://www.en.wikipedia.org/
o http://ngonngu.net/