So sánh lời thỉnh cầu của người việt và người mỹ

  • pdf
  • 28 trang
1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH
PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-------------------

LÝ THIÊN TRANG

SO SÁNH LỜI THỈNH CẦU CỦA
NGƯỜI VIỆT VÀ NGƯỜI MỸ
Chuyên ngành: NGÔN NGỮ HỌC SO SÁNH ĐỐI CHIẾU
Mã số: 62.22.01.10

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC
SO SÁNH ĐỐI CHIẾU

Thành phố Hồ Chí Minh – 2019

1

2

Công trình được hoàn thành tại:
Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn

Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. Bùi Khánh Thế

Phản biện độc lập 1: ...........................................................................
Phản biện độc lập 2: ............................................................................

Phản biện 1:
Phản biện 2:
Phản biện 3:

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp cơ sở
đào tạo họp tại
...........................................................................................................
Vào hồi……... giờ…..…. Ngày…..…. Tháng…..… năm…..…

Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện: ...................................................

2

1
MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài
Trong giai đoạn phát triển hiện nay của ngôn ngữ học, các vấn đề vế
phát ngôn, tương tác hội thoại, mối tương quan giữa các phương tiện giao tiếp
bằng ngôn ngữ và phi ngôn ngữ, hiệu quả của lời nói trong giao tiếp… đang
được đi sâu nghiên cứu. Trong các ngôn ngữ khác nhau lời thỉnh có những
biểu đạt khác nhau và mang đậm nét văn hóa xã hội. Có rất nhiều công trình
nghiên cứu về lời thỉnh cầu trong các thứ tiếng như Nhật (Tanaka, 1988;
Beebe, Takahashi, và Uliss-Weltz, 1990; Kubota, 1996; Nike & Tajika, 1994),
tiếng Hoa (Banerjee & Carrell, 1988; Song-Mei, 1993; Huang, 1996), tiếng
Đức (Kasper, 1981; Kasper, 1984; Kasper & House, 1987), tiếng Đan Mạch
(Faerch & Kasper, 1989), và một vài nghiên cứu trong nước như Những khác
biệt chủ yếu trong chiến lược thỉnh cầu của người Việt và người Pháp (Đỗ
Quang Việt, 2005), Nghiên cứu cách từ chối lời yêu cầu của người Úc bản xứ
nói tiếng Anh và người Việt nói tiếng Anh (Nguyễn Thị Minh Phương, 2006),
Cách thực hiện lời thỉnh cầu của người Úc bản xứ nói tiếng Anh và người Việt
nói tiếng Anh (Hà Cẩm Tâm, 1998). Nghiên cứu lời thỉnh cầu trong tiếng Việt
như: Nguyễn Huỳnh Lâm (2016), Lời cầu khiến trong tiếng Anh (so sánh với
tiếng Việt - bình diện lịch sử), Luận án TS Ngôn ngữ học. Nguyễn Thị Hồng
Vân (2002), Câu ngữ vi cầu khiến tường minh với phép lịch sự trong giao tiếp;
Nguyễn Văn Độ (1997), Gián tiếp hay lịch thiệp xét trong hành vi thỉnh cầu.;
Nguyễn Văn Độ (1999). Những yếu tố làm biến đổi lực ngôn trung của lời
thỉnh cầu trong tiếng Anh và tiếng Việt; Lời thỉnh cầu bóng gió trong tiếng
Anh và tiếng Việt. Tạp chí Ngôn ngữ, Số 6; Nguyễn Văn Độ, (2000), Các
phương tiện biểu hiện hành động thỉnh cầu trong tiếng Anh và tiếng Việt;
Nguyễn Văn Độ (2004), Lời thỉnh cầu trong tiếng Anh và tiếng Việt (Dưới
ánh sáng đối liên văn hóa); Phạm Thị Thành (1991), Nghi thức lời nói tiếng
Việt: lời yêu cầu; Vũ Tiến Dũng (2005) ,Một số chiến lược từ chối lịch sự lời
cầu khiến cạnh tranh trong giao tiếp của người Việt; Vũ Thị Thanh Hương
(1999a), Gián tiếp và lịch sự trong lời thỉnh cầu tiếng Việt.. Vang cũng đã
nghiên cứu lời thỉnh cầu và nêu ra một vài vấn đề về văn hoá liên quan lời
thỉnh cầu. Ông cũng chỉ ra những khác biệt trong việc sử dụng chiến lược
thỉnh cầu của người của người Việt và người Úc (Lời thỉnh cầu, 1990).
Lời thỉnh cầu đóng vai trò quan trọng trong giao tiếp xã hội, trong các
ngôn ngữ khác nhau lời thỉnh cầu có những biểu đạt khác nhau và mang đậm
nét văn hoá xã hội. Tuy nhiên, chưa có công trình nghiên cứu chuyên sâu nào
về so sánh lời thỉnh cầu của người Việt và người Mỹ để từ đó tìm ra một số
1.

2
đặc điểm cơ bản về văn hoá – ngôn ngữ của người Việt và người Mỹ khi họ có
những ưu tiên lựa chọn chiến lược thỉnh cầu và thành phần điều biến lực ngôn
trung khi các biến xã hội thay đổi: địa vị, tuổi tác, mối quan hệ và giới
tính.Thông qua đó, luận án góp phần làm sáng tỏ bản sắc văn hoá dân tộc;
giúp cải thiện những khó khăn, trở ngại trong việc dạy và học ngoại ngữ…

2.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2.1

Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu là lời thỉnh cầu người Việt nói tiếng Việt sống tại
TP. Hồ Chí Minh có trình độ học vấn từ Trung học phổ thông trở lên và lời
thỉnh cầu của người Mỹ có quốc tịch Mỹ nói tiếng Anh sống tại TP. Hồ Chí
Minh có trình độ học vấn tương đương.
2.2

Phạm vi nghiên cứu

Luận án xoay quanh các vấn đề sau: Chiến lược thỉnh cầu và thành
phần điều biến lực ngôn trung trong lời thỉnh cầu của người Việt và người Mỹ
khi thực hiện lời thỉnh cầu khi các biến số xã hội thay đổi như: địa vị, tuổi tác,
mối quan hệ và giới tính. Luận án so sánh hai tập dữ liệu thu được từ những
lời thỉnh cầu của hai nhóm đối tượng người Việt và người Mỹ sống tại TP. Hồ
Chí Minh khi thực hiện lời thỉnh cầu với những tình huống giả định cho sẵn,
các tình huống này là những tình huống phổ biến được lựa chọn từ những tình
huống thường gặp hằng ngày trong thực tế cuộc sống.
Việc đối chiếu tiếng Việt và tiếng Anh là đối chiếu hai ngôn ngữ thuộc
hai loại hình khác nhau: tiếng Việt thuộc loại hình đơn lập, tiếng Anh thuộc
loại hình phi đơn lập. Nếu nói ngôn ngữ liên hệ chặt chẽ với văn hóa thì đối
chiếu ngôn ngữ cũng phải liên hệ đến hai nền văn hóa có ngôn ngữ đó. Bên
cạnh đó, tiếng Anh là ngôn ngữ được sử dụng rộng rãi, có thể nói là một trong
các ngôn ngữ phổ biến nhất trên thế giới hiện nay. Tiếng Việt ngày nay cũng
được nhiều người biết đến. Vì vậy, việc nghiên cứu đối chiếu lời thỉnh cầu hứa
hẹn mở ra những ứng dụng thực tế. Trong luận án này, chúng tôi tập trung đối
chiếu lời thỉnh cầu trong tiếng Việt và tiếng Anh.
3.

Nhiệm vụ và mục đích nghiên cứu
3.1

Mục đích nghiên cứu

So sánh lời thỉnh cầu của người Việt và người Mỹ để tìm ra một số đặc
điểm cơ bản về văn hoá-ngôn ngữ của người Việt và người Mỹ khi khi họ thực
hiện lời thỉnh cầu khi các biến xã hội thay đổi: địa vị, tuổi tác, mối quan hệ và

3
giới tính. Việc nghiên cứu này góp phần luận án góp phần làm sáng tỏ bản sắc
văn hoá dân tộc của người Việt và người Mỹ.
Mặt khác, việc so sánh lời thỉnh cầu của người Việt và người Mỹ còn
đóng một vai trò quan trọng trong lĩnh vực dạy học ngoại ngữ, giúp cải thiện
những khó khăn trở ngại trong việc dạy học ngoại ngữ. Sự cần thiết phải so
sánh đối chiếu ngôn ngữ để hỗ trợ cho việc dạy học ngoại ngữ, nâng cao hiệu
quả của quá trình dạy học ngoại ngữ là một trong những động cơ thúc đẩy sự
hình thành và phát triển của ngôn ngữ học đối chiếu. Bản chất của lời thình
cầu là áp đặt lên người nghe, vì vậy nếu người nói hay người học ngoại ngữ
không sử dụng lời thỉnh cầu hợp lí thì sẽ không đạt được mục đích giao tiếp.
Ngoài ra, việc so sánh lời thỉnh cầu của người Việt và người Mỹ sẽ góp
phần không nhỏ vào công tác dịch thuật.
Thật vậy, lời thỉnh cầu đóng vai trò quan trọng trong giao tiếp xã hội.
Trong các ngôn ngữ khác nhau lời thỉnh có những biểu đạt khác nhau và mang
đậm nét văn hóa xã hội. Người Việt và người Mỹ có những ưu tiên lựa chọn
chiến lược thỉnh cầu khác nhau do đặc điểm văn hóa khác nhau. Việc lựa chọn
chiến lược thỉnh cầu với các biến số xã hội như địa vị, tuổi tác, mối quan hệ và
giới tính cũng khác nhau trong các nền văn hóa. Vì vậy, lời thỉnh cầu cần được
xem xét chu đáo và toàn diện dưới góc nhìn văn hóa vì bản chất lời thỉnh cầu
là áp đặt lên người nghe, người nhận thông tin.
3.2

Nhiệm vụ nghiên cứu

Việc nghiên cứu lời thỉnh cầu của người Việt và người Mỹ sống tại TP.
Hồ Chí Minh thông qua khảo sát, thông qua nghiên cứu tài liệu, những lời
thỉnh cầu thu được từ các tình huống cho sẵn nhằm giải quyết các nhiệm vụ cơ
bản sau:
- Mô tả và đối chiếu các chiến lược thỉnh cầu và điều biến lực ngôn
trung trong lời thỉnh cầu của người Việt và người Mỹ.
- Khảo sát sự tác động của các biến xã hội của người Việt và người Mỹ
đối với việc sử dụng các chiến lược thỉnh cầu và điều biến lực ngôn trung của
lời thỉnh cầu.
- Chỉ ra những đặc điểm văn hóa – ngôn ngữ của người Việt và người
Mỹ khi thực hiện lời thỉnh cầu.
4.

Phương pháp nghiên cứu và nguồn dữ liện
4.1

Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp khảo sát trắc nghiệm hoàn chỉnh diễn ngôn viết (Written
Discource Completion Test), phương pháp mô tả và phương pháp so sánh đối

4
chiếu và các thủ pháp nghiên cứu: thống kê, phân tích. Dữ liệu thu thập được
được phân tích dựa trên công cụ hỗ trợ phần mềm thống kê SPSS.
a.

Nguồn dữ liệu

Dữ liệu này được thu thập thông qua điều tra bằng bảng câu hỏi khảo
sát đối với người Việt nói tiếng Việt sống tại TP. Hồ Chí Minh có trình độ học
vấn từ Trung học phổ thông trở lên (120 người) và người Mỹ có quốc tịch Mỹ
nói tiếng Anh sống tại TP. Hồ Chí Minh có trình độ học vấn tương đương
(120 người) khi thực hiện lời thỉnh cầu khi các quan hệ xã hội khác nhau: địa
vị, tuổi tác, mối quan hệ và giới tính.
Dữ liệu thu thập trong năm 2016 và 2017 thông qua phương pháp trắc
nghiệm hoàn chỉnh diễn ngôn. Dữ liệu thu thập khi người Việt và người Mỹ
thực hiện lời thỉnh cầu trong các tình huống khi có sự thay đổi các biến số xã
hội như: địa vị, tuổi tác, mối quan hệ và giới tính.
Kí hiệu biến số: địa vị (P), tuổi tác (A), mối quan hệ (R), và giới tính
(G)
Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Lời thỉnh cầu đóng vai trò quan trọng trong giao tiếp xã hội, trong các
ngôn ngữ khác nhau lời thỉnh cầu có những biểu đạt khác nhau và mang đậm
nét văn hoá xã hội. Mục đích giao tiếp của con người cuối cùng là để thoả mãn
những nhu cầu cá nhân dựa trên các chuẩn mực xã hội. Chính vì vậy mà lời
thỉnh cầu của chủ thể nói năng giữ vai trò hết sức quan trọng. Lời thỉnh cầu
quan trọng đến mức hầu như không một ngôn ngữ nào trên thế giới là không
có kiểu câu mang ý nghĩa này. Tuy nhiên, không phải lúc nào lời thỉnh cầu
cũng được thực hiện theo đúng mục đích của chủ thể phát ngôn. Điều này có
nhiều lý do mà một trong các lý do rất quan trọng, có tính quyết định đó chính
là tuỳ thuộc vào hiệu lực điều biến lực ngôn trung của lời thỉnh cầu. Việc tăng
hay giảm hiệu lực của lời thỉnh cầu lại tuỳ thuộc khá nhiều yếu tố: vai giai
tiếp, hoàn cảnh nói năng… và cả đặc trưng ngôn ngữ riêng biệt của mỗi cộng
đồng. Vì vậy, luận án “So sánh lời thỉnh cầu của người Việt và người Mỹ” với
mục đích nêu bật được một số khác biệt cơ bản của chiến lược thỉnh cầu và
của lực ngôn trung trong lời thỉnh cầu khi địa vị, tuổi tác, mối quan hệ và giới
thính của chủ thể phát ngôn thay đổi khi thực hiện một số tình huống giao tiếp
bằng lời thông dụng trong cuộc sống hằng ngày của người Việt và người Mỹ
góp phần làm sáng tỏ bản sắc văn hoá dân tộc; giúp cải thiện những khó khăn,
trở ngại trong việc dạy và học ngoại ngữ. Kết quả nghiên cứu còn góp phần
phục vụ các nhà nghiên cứu ngôn ngữ, các nhà nghiên cứu ngôn ngữ học ứng
5.

5
dụng, các nhà nghiên cứu dịch thuật và các nhà nghiên cứu văn hóa học,
những người đang làm việc trong lĩnh vực so sánh các ngôn ngữ tiếng Việt và
tiếng Anh.
6.

Bộ cục của luận án
Luận án có hai quyển: quyển chính văn 150 trang và quyển phụ lục
375 trang. Quyển chính văn bao gồm phần dẫn nhập, phần kết luận và 3
chương:
Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lí luận
Chương 2. Chiến lược thỉnh cầu của người Việt và người Mỹ
Chương 3: Thành phần điều biến lực ngôn trung trong lòi thỉnh cầu
của người Việt và người Mỹ
Chương 4. Một số đặc điểm văn hoá trong lời thỉnh cầu của người Việt
và người Mỹ
Quyển phụ lục gồm những nội dung sau:
- PL01: Bảng câu hỏi mẫu tiếng Việt và tiếng Anh
- PL02: Bảng câu hỏi tiếng Việt thu được
- PL03: Bảng câu hỏi tiếng Anh thu được
- PL04: Ngữ liệu thu tập về lời thỉnh cầu trong cuộc sống, trong văn chương,
trong phim dùng tham khảo thêm.
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ
LUẬN
Trong chương này, luận án giới thiệu tổng quan các nghiên cứu liên
quan và cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu của luận án. Các vấn đề lí thuyết
liên quan trực tiếp đến lời thỉnh cầu ở bình diện ngữ dụng học là lí thuyết hành
động ngôn ngữ, lí thuyết hội thoại, lí thuyết lịch sự. Cở sở lý luận cho nghiên
cứu là lời thỉnh cầu, các chiến lược thỉnh cầu và thành phần điều biến lực ngôn
trung trong lời thỉnh cầu.
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1.1. Tình hình nghiên cứu về lời thỉnh cầu ở các ngôn
ngữ khác tiếng Việt và tiếng Anh
Có rất nhiều công trình nghiên cứu về lời thỉnh cầu trong các thứ tiếng
như Nhật (Tanaka, 1988; Beebe, Takahashi, và Uliss-Weltz, 1990; Kubota,
1996; Nike & Tajika, 1994, Tống Thị Hà, 2013), tiếng Hoa (Banerjee &
Carrell, 1988; Song-Mei, 1993; Huang, 1996), tiếng Đức (Kasper, 1981;

6
Kasper, 1984; Kasper & House, 1987), tiếng Đan Mạch (Faerch & Kasper,
1989), tiếng Pháp (Ervin – Tripp và cộng sự, 1987); Beal, 1990, 1994)…
1.1.2. Tình hình nghiên cứu về lời thỉnh cầu trong tiếng
Việt và tiếng Anh
Nghiên cứu lời thỉnh cầu trong tiếng Việt như: Nguyễn Huỳnh Lâm
(2016), Lời cầu khiến trong tiếng Anh (so sánh với tiếng Việt - bình diện lịch
sử), Luận án TS Ngôn ngữ học. Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam; Nguyễn Thị
Hồng Vân (2002), Câu ngữ vi cầu khiến tường minh với phép lịch sự trong
giao tiếp. Tạp chí Ngôn ngữ và Đời sống, Số 5; Nguyễn Văn Độ (1997), Gián
tiếp hay lịch thiệp xét trong hành vi thỉnh cầu. Hà Nội: Ngữ học trẻ; Nguyễn
Văn Độ (1999). Những yếu tố làm biến đổi lực ngôn trung của lời thỉnh cầu
trong tiếng Anh và tiếng Việt. Tạp chí Ngôn ngữ, Số 1; Lời thỉnh cầu bóng gió
trong tiếng Anh và tiếng Việt. Tạp chí Ngôn ngữ, Số 6; Nguyễn Văn Độ,
(2000), Các phương tiện biểu hiện hành động thỉnh cầu trong tiếng Anh và
tiếng Việt. Luận án Tiến sỹ; Nguyễn Văn Độ (2004), Lời thỉnh cầu trong tiếng
Anh và tiếng Việt (Dưới ánh sáng đối liên văn hóa). Tạp chí Ngôn ngữ, Số 2,
tr. 30–40; Phạm Thị Thành (1991), Nghi thức lời nói tiếng Việt: lời yêu cầu.
Tạp chí Khoa học, Đại học KHTN, Số 2; Vũ Tiến Dũng. (2005). Một số chiến
lược từ chối lịch sự lời cầu khiến cạnh tranh trong giao tiếp của người Việt. Hà
Nội: Ngữ học trẻ, Hội Ngôn ngữ học Việt Nam; Vũ Thị Thanh Hương.
(1999a), Gián tiếp và lịch sự trong lời thỉnh cầu tiếng Việt. Tạp chí Ngôn ngữ,
Số 1. Vang cũng đã nghiên cứu lời thỉnh cầu và nêu ra một vài vấn đề về văn
hoá liên quan lời thỉnh cầu. Ông cũng chỉ ra những khác biệt trong việc sử
dụng chiến lược thỉnh cầu của người của người Việt và người Úc (Lời thỉnh
cầu, 1990). Trần Chi Mai. (2005). Cách biểu hiện hành vi từ chối lời cầu khiến
bằng các phát ngôn lảnh tránh (trên cứ liệu tiếng Anh và tiếng Việt). Tạp chí
Ngôn ngữ, Số.1; Blum-Kulka, S., & Olshtain, E. (1984), Requests and
Apologies: A Cross-Cultural Study of Speech Act Realization Patterns
(CCSARP), Applied linguistics; Nguyen Duc Hoat, (1995), Politeness markers
in Vietnamese Speakers. Dissertation.; Ha, C. Tam, (1998), Requests by
Australian Native Speakers of English and Vietnamese Learners of English. A
Thesis submitted in total fulfillment of the requyrement for the degree of
Master of Arts. Úc: La Troub University.
Nhìn chung, những nghiêu cứu này đã đóng góp quan cho việc nghiên
cứu lời thỉnh cầu và những vấn đề liên quan lời thỉnh cầu trong tiếng Việt và
tiếng Anh.

7
1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.2.1. Lý thuyết hội thoại, hành động ngôn từ và lịch sự
Các vấn đề lí thuyết liên quan trực tiếp đến lời thỉnh cầu ở bình diện
ngữ dụng học là lí thuyết hành động ngôn từ, lí thuyết hội thoại, lí thuyết lịch
sự, ngôn ngữ - văn hóa. Người khởi xướng lí thuyết hành động ngôn từ
(Speech act theory) - một lí thuyết đặt nền móng cho ngữ dụng học chính là
nhà triết học J. L. Austin với công trình nổi tiếng được công bố sau khi ông qua
đời “How to do things with words” (Austin,1962). Theo Austin, khi con người
giao tiếp với nhau không thể không xem xét đến bối cảnh giao tiếp. Một lời nói
nào đó chỉ có thể có được hiệu quả và phù hợp khi đặt nó trong một bối cảnh
giao tiếp cụ thể.
Về lí thuyết hội thoại (Conversation theory), hiệu lực giao tiếp của
ngữ dụng học được trình bày trong công trình nổi tiếng của H. P. Grice là "Lô
gích và Hội thoại" (Logic and Conversation,1975). Trong công trình này, ông
đã đi tới một phát hiện rất quan trọng đồng thời đưa ngành ngữ dụng học phát
triển sang một giai đoạn mới. Grice nêu ra nguyên lí cộng tác hội thoại
(cooperative principle). Nguyên lí này gồm một nguyên lí khái quát và 4
phương châm hội thoại. Nguyên lí khái quát được phát biểu như sau: “Hãy làm
cho phần đóng góp của mình ở giai đoạn mà cuộc hội thoại được xem xét đúng
như mục đích hay phương hướng mà cuộc hội thoại đòi hỏi và mình đã chấp
nhận tham gia”. Còn 4 phương châm mà Grice đã đề xướng là phương châm về
lượng, phương châm về chất, phương châm quan hệ, phương châm cách thức
(tr.130).
Về phép lịch sự (politeness), những tác giả tiêu biểu nghiên cứu về
vấn đề này có R. Lakoff (1973), G. Leech (1983), P. Brown và S. Levinson
(1978, 1987). Quan điểm về phép lịch sự của R. Lakoff là “lịch sự là tôn trọng
lẫn nhau”. Nó bao gồm các biện pháp dùng để giảm bớt trở ngại trong tương
tác giao tiếp giữa các cá nhân, bao gồm các quy tắc sau:
- Quy tắc không áp đặt (Don’t impose): với quy tắc này, người nói sẽ
tránh hoặc giảm nhẹ khi yêu cầu người nghe làm một việc gì đó mà người nghe
không muốn làm.
- Quy tắc dành cho người nghe sự lựa chọn (Give option): quy tắc này
hoạt động khi những người hội thoại cần bình đẳng với nhau nhưng không gần
gũi về quan hệ xã hội.
- Quy tắc làm cho người đối thoại cảm thấy thoải mái (Make a feel
good - be friendly): Ở quy tắc này, người tham gia cuộc thoại có thể nói với
nhau hầu hết các đề tài, không cần phải giấu giếm, rào đón hay thăm dò nhau.

8
Quan điểm về phép lịch sự của G. Leech (1983) dựa trên khái niệm
tổn thất (cost) và lợi ích (benefit), bao gồm các phương châm: phương châm
khéo léo, phương châm rộng rãi, phương châm tán thưởng, phương châm
khiêm tốn, phương châm tán đồng, phương châm thiện cảm (tr.261).
P. Brown và S. Levinson xây dựng lí thuyết lịch sự từ việc mở rộng
nguyên tắc tôn trọng thể diện mà E. Goffman đề xướng. E. Goffman (1972) là
người đầu tiên đề cập đến vấn đề thể diện (face) trong giao tiếp và tiếp nhận
phép lịch sự như là một hành vi giữ gìn thể diện. Thể diện là cái gì đó có thể
mất, có thể được duy trì, có thể được nâng cao, và như vậy, trong lúc giao tiếp
chúng ta phải ngăn ngừa không để bất cứ một cái gì làm phương hại đến nó.
Và, bởi thể diện rất dễ dàng bị tổn thương, mỗi một người đều lo giữ gìn thể
diện của mình. Người ta đi đến một giả thuyết tốt nhất là các bên tham gia đàm
thoại hãy giữ gìn thể diện cho nhau. Về thể diện, P. Brown và S. Levinson
(1978 và 1987) là hai tác giả nổi tiếng trong lĩnh vực nghiên cứu lịch sự.
Brown và Levison phân loại thể diện xét theo khía cạnh có lợi cho người tham
gia vào giao tiếp chứ không tập trung nhiều vào chuẩn mực xã hội. Hai loại thể
diện đó là thể diện âm tính (negative face) và thể diện dương tính (positive
face). Đây là lí thuyết mà hiện nay được xem là nhất quán nhất, có hiệu quả
nhất đối với việc nghiên cứu về phép lịch sự (tr.263, tr. 268).
Nguyên tắc cơ bản trong lí thuyết lịch sự của P. Brown và S. Levision
là một số hành động tự thân có thể làm phương hại đến thể diện, và vì vậy,
chúng ta phải có những điều chỉnh sao cho những điều đó không xảy ra. Để đạt
được mục đích này, mỗi một cộng đồng tạo dựng riêng cho mình một quy ước,
chuẩn mực riêng trong cách biểu thị lịch sự. Và cũng từ đấy nảy sinh những
nghệ thuật (chiến lược - strategy) để đạt được lịch sự. Bằng cách sử dụng nghệ
thuật này chúng ta thành công trong giao tiếp cả về phương diện truyền đạt
thông điệp cơ bản (primary message) lẫn phương diện lịch sự (tr.56).
Ở Việt Nam, ngữ dụng học được nhiều người biết đến thông qua
những công trình tiêu biểu như Ngữ dụng học của Nguyễn Đức Dân (tập một,
1998), Dụng học Việt ngữ của Nguyễn Thiện Giáp (2000), Đại cương Ngôn
ngữ học tập của Đỗ Hữu Châu và Bùi Minh Toán (tập hai, 1996), Đại cương
Ngôn ngữ học của Đỗ Hữu Châu (tập hai, 2003), Giáo trình ngữ dụng học của
Đỗ Thị Kim Liên (2005) và một số công trình khác.
Trong Ngữ dụng học (tập 1, 1998), Nguyễn Đức Dân đã giới thiệu
nguyên lí lịch sự và giao tiếp dựa trên quan điểm về thể diện của P. Brown và
S. Levinson. Bên cạnh đó, tác giả còn bàn luận về vấn đề chưa thoả đáng trong
quan niệm của G. Leech, lí thuyết về giao tiếp ngôn ngữ cũng được trình bày

9
một cách khái quát trong công trình này thông qua việc kết hợp lí thuyết với
các ví dụ cụ thể trích dẫn từ các tác phẩm văn học.
Dụng học Việt ngữ (2000) của Nguyễn Thiện Giáp đã giới thiệu một
số khái niệm dụng học như: ngữ cảnh và ý nghĩa, lí thuyết hội thoại, lịch sự và
giao tiếp, nguyên tắc hợp tác và hàm ý hội thoại… với sự phân tích và minh
họa trên các dẫn liệu việt ngữ một cách ngắn gọn, dễ hiểu.
Đỗ Hữu Châu với công trình Đại cương ngôn ngữ học, tập 2, Ngữ
dụng học (2003), đã giới thiệu đầy đủ, cụ thể các quan điểm và lí thuyết hội
thoại trong giao tiếp. Ngoài ra, tác giả còn nghiên cứu bổ sung phép lịch sự của
R. Lakoff, G. Leech, P. Brown và S. Levinson. ông đã đưa ra một hướng tiếp
cận mới, với những khám phá mới trên bình diện dụng học đối với tiếng Việt,
nhiều vấn đề lí thuyết về dụng học được trình bày một cách hệ thống, đầy đủ.
1.2.2 Lời thỉnh cầu và những vấn đề liên quan
Trong giao tiếp giữa các thành viên trong cùng cộng đồng, hay giữa
các cộng đồng văn hoá khác nhau không thể thiếu lời thỉnh cầu. Lời thỉnh cầu
được sử dụng rất nhiều trong mọi lĩnh vực hoạt động của con người, trong giao
tiếp hằng ngày, trong giao tiếp ngoại giao, trong giảng dạy và nghiên cứu…
Searle (1969) đã xếp lời thỉnh cầu vào nhóm khuyến lệnh (directives).
Lời thỉnh cầu được định nghĩa là những cách thức mà người nói cố đạt được để
yêu cầu người nghe thực hiện một hành động nào đó (Leech, 1983, Blum –
Kulka & Kasper, 1989)
Dựa theo cách phân loại động từ ngữ thi trong tiếng Anh trong nhóm
“khuyến lệnh” (directives) của Anna Wierzbicka, tác giả “Tìm hiểu mới liên hệ
Ngôn ngữ - Văn hoá” (Nguyễn Văn Độ, 2000, 2004) chia các động từ ngữ thi
trong tiếng Việt trong nhóm khuyến lệnh thành ba nhóm: buộc làm; yêu cầu,
nhờ cậy; yêu cầu, đề nghị thực hiện
Trong các hành động ngôn từ trong tiếng Việt thì hành đồng tương
đương với “request” là hành động “nhờ”. Trong từ điển tiếng Việt (86; 701)
định nghĩa “nhờ” là “yêu cầu người khác giúp cho việc gì”
Theo Nguyễn Văn Độ (2000 2004), những nội dung thỉnh cầu (trong
luận án là lời thỉnh cầu) thường được người Anh cũng như người Việt sử dụng:
Thỉnh cầu để nhận thông tin
Thỉnh cầu để được giúp đỡ
Thỉnh cầu để nhận được sự che chở của siêu lực
Yêu cầu người nghe thực hiện hành động A
Các biểu hiện ngôn ngữ của lồi thỉnh cầu trong tiếng Anh và tiếng Việt
trên bình diện cấu trúc

10
Cấu trúc mệnh lệnh (imperatives)
Cấu trúc nghi vấn (interrogatives)
Cấu trúc trình bày (declaratives)
Cấu trúc tỉnh lược (elliptical constructions)
Nhiều công trình nghiên cứu đã khẳng định rằng trong tiếng Anh cấu
trúc mệnh lệnh ít được dùng để thỉnh cầu; thay vào đó là các cấu trúc nghi vấn
và điều kiện. Đặc trưng này của tiếng Anh đã được một số nâng lên thành lí
thuyết và được coi là đặc trưng mang tính phổ quát trong việc sử dụng ngôn
ngữ.
Lời thỉnh cầu trong tiếng Việt và tiếng Anh gồm hai phần: phần cốt lõi
(phần trực tiếp thực hiện thỉnh cầu) và phần điều biến lực ngôn trung. Phần
điều biến lực ngôn trung này có chức năng làm giảm nhẹ hoặc làm tăng lực
ngôn trung của lời thỉnh cầu.
Theo cách phân loại hành động ngôn ngữ của Austin và đã được
Searle (1969) phát triển thì họ coi giao tiếp ngôn ngữ không đơn giản chỉ là
phương tiện truyền tải thông tin, mà còn là công cụ để con người sử dụng
nhằm đạt được các mục đích khác nhau. Trong đó Searle đã xếp hành vi thỉnh
cầu vào nhóm khuyến lệnh (directives).
Theo Searle, nhóm “khuyến lệnh” (directives) bao gồm những “cố
gắng” của người nói (ở các mức độ khác nhau) sao cho người nghe thực hiện
một hành động nào đó. Những “cố gắng” này có thể ở mức độ thông thường, ví
dụ như ta nhờ, gợi ý ai giúp đỡ mình việc gì, nhưng cũng có thể là những “cố
gắng” ở mức độ cao như khi ta có thái độ cương quyết, buộc ai đó phải hành
động hay không được hành động.1 Đối với mỗi ngôn ngữ có những cách riêng
để bày tỏ sự thỉnh cầu, những cách thức đó tương ứng với đặc trưng văn hóa
của dân tộc mà ngôn ngữ đó được sử dụng. Trong tiếng Anh, điều này được thể
hiện chủ yếu dưới dạng câu hỏi, câu điều kiện, v.v. Còn trong tiếng Việt, để
thực hiện hành vi thỉnh cầu người ta cũng thường dùng các loại câu tương tự
như của tiếng Anh song khác nhau về mức độ.
Lời thỉnh cầu bao giờ cũng được thực hiện trong một bối cảnh giao
tiếp cụ thể, và chịu tác động của sự khác biệt về vị thế xã hội, khoảng cách địa
vị, thói quen, giao tiếp.. giữa người nói và người nghe.
Dựa trên lí thuyết của Brown and Levinson’s (1987), Blum-Kulka và
các cộng sự (1989) đưa ra các chiến lược thỉnh cầu với mức độ áp đặt khác
nhau trong lời thỉnh cầu.
Nhóm 1: Các chiến lược thỉnh cầu trực tiếp

11
1. Cấu trúc mệnh lệnh: (Anh/Chị) đi ra khỏi đây ngay!
2. Biểu thức ngữ vi: Tôi yêu cầu Anh/Chị đi ra khỏi đây ngay
3. Biểu thức ngữ vi giảm nhẹ: Tôi muốn yêu cầu Anh/Chị đi
ra khỏi đây ngay
4. Diễn tả sự bắt buộc: Anh phải đi ra khỏi đây ngay
5. Trình bày nhu cầu, sự cần thiết: Tôi cần anh đi ra khỏi đây
ngay
6. Khẳng định một ý muốn, một nguyện vọng: Tôi muốn anh
đi ra khỏi đây ngay
Nhóm II: Các chiến lược thỉnh cầu gián tiếp ước lệ
7. Hỏi người nghe: Anh có thể đi ra khỏi đây ngay không?
Nhóm III: Các chiến lược thỉnh cầu gián tiếp phi ước lệ
8. Gợi ý mạnh (gợi ý thẳng): Tôi không có thời gian tiếp anh.
9. Gợi ý nhẹ (nói xa, nói bóng gió): Tôi chuẩn bị phải đi.
Bên cạnh thành phần cốt lõi trong cấu trúc thỉnh cầu thì thành phần
điều biến lực ngôn trung đóng vai trò cũng không kém phần quan trọng. Các
thành phần điều biến lực ngôn trung là những yếu tố ngôn ngữ kèm theo hoặc
xuất hiện trước/sau mệnh đề chính. Chúng không thay đổi nội dung mệnh đề
nhưng khiến cho lực ngôn trung tăng cường hoặc làm yếu đi bằng những điều
chỉnh cú pháp hoặc từ pháp. Có thể chia các thành phần điều biến lực ngôn
trung này thành hai nhóm: (i) Nhóm điều biến nội bộ (internal modification) và
(ii) Nhóm điều biến ngoại vi (external modification).
Nhóm điều biến lực ngôn trung nội bộ gồm các thành phần điều biến
lực ngôn trung thông qua cú pháp làm giảm nhẹ lực ngôn trung như: câu hỏi
nghi vấn (Interrogative), dạng phủ định (Negation), thì quá khứ (Past Tense),
câu điều kiện (Conditional Clause), câu phức (Embedding), động từ khiếm
khuyết (Modals), cấu trúc câu có thể - Able to, v.v. Ngoài ra, còn có các thành
phần điều biến lực ngôn trug thông qua từ, cụm từ như: trạng từ làm giảm nhẹ
(downtoner: maybe, just), hoặc từ, cụm từ cũng có chức năng nói giảm
(Understatement: a minute, some…), từ mang tính cá nhân hoá
(Personalization: for me, for you). Bên cạnh những từ, cụm từ, cú pháp làm
giảm nhẹ lực ngôn trung trong lời thỉnh cầu, còn có những từ, cụm từ, cách
diễn đạt làm tăng lực ngôn trung trong phát ngôn thỉnh câu như (trạng từ
(Adverb: such, so, very, quyte, immediately, v.v).
Nhóm điều biến lực ngôn trung ngoại vi gồm những cấu trúc diễn đạt
rào đón, chuẩn bị (Preparator), nêu lí do (Grounders), hứa hẹn (Promise of a
reward), những cách diễn đạt làm giảm nhẹ tổn thất cho người nghe (Cost

12
minimizing), hoặc những cách diễn đạt thể hiện sự cảm ơn, mang ơn
(Expressions of appreciation, Indebtness.
1.2.3. Mối quan hệ giữa ngôn ngữa và văn hóa
Ngôn ngữ và văn hóa có mối liên hệ mật thiết với nhau, không ai có
thể phủ nhận những mối quan hệ khăng khít không thể tách rời (có thể ví ngôn
ngữ và văn hóa như hai mặt của một tờ giấy, xé mặt này không thể không xé
mặt kia). Mỗi một ngôn ngữ lại mang trong mình những đặc trưng văn hóa
riêng biệt của chính mình và chúng được phản ánh vào ngôn ngữ bằng những
cách khác nhau cả về chất lượng, nội dung và hình thức. Chính vì văn hóa và
ngôn ngữ không thể tách rời nhau mà có thể thấy ngôn ngữ vừa là một bộ phận
cấu thành văn hóa, vừa là phương tiện để thể hiện, lưu trữ, và truyền bá văn
hóa. Ngay từ những định nghĩa về văn hóa, các học giả cũng đã chỉ rõ mối liên
hệ ấy.
Tiểu kết
Trong chương này, chúng tôi đã trình bày các vấn đề lí thuyết liên
quan trực tiếp đến lời thỉnh cầu ở bình diện ngữ dụng học là lí thuyết hành
động ngôn từ, lí thuyết hội thoại, lịch sự, lí thuyết lịch sự.
Giao tiếp liên văn hóa chính là bản chất của dụng học xuyên ngôn
ngữ. Các công trình nghiên cứu về giao tiếp giữa các nền văn hóa cho thấy
thậm chí không ít trường hợp hiểu lầm giữa những người cùng thuộc cộng
đồng văn hóa.
Với những đúc kết từ tổng quan các công trình đi trước, chúng tôi thực
hiện so sánh lời thỉnh cầu của người Việt và người Mỹ dựa trên các chiến lược
thỉnh cầu và thành phần điều biến lực ngôn trung nội bộ và ngoại vi.
Hiện nay, các tri thức quan yếu về ngữ dụng học, hay cụ thể hơn là lời
thỉnh cầu xét trên bình diện lịch sự ngôn ngữ đã được giới thiệu khá rộng rãi.
Do vậy, khác với các công trình vừa nêu, nghiên cứu của chúng tôi không trình
bày lại những vấn đề lí thuyết đã khá phổ biến và tương đối ổn định; trái lại
qua phân tích chiến lược thỉnh cầu và thành phần điều biến lực ngôn trung để
làm cơ sở so sánh lời thỉnh cầu của người Việt và người Mỹ khi thực hiện lời
thỉnh cầu với các biến thay đổi: địa vị, tuổi tác, mối quan hệ và giới tính, bình
diện lịch sự trong những tình huống cụ thể mà chúng tôi cho rằng có sức giải
thích, kiến giải một số vấn đề còn bỏ ngỏ với mong muốn hoàn thiện bức tranh
nghiên cứu về lời thỉnh cầu vốn đã rất nhiều màu sắc.
CHƯƠNG 2. CHIẾN LƯỢC THỈNH CẦU TRONG LỜI THỈNH CẦU
CỦA NGƯỜI VIỆT VÀ NGƯỜI MỸ

13
Chương 2 tập trung nghiên cứu chiến lược thỉnh cầu trong lời thỉnh cầu
của người Việt và người Mỹ khi các biến số xã hội thay đổi như: địa vị, tuổi
tác, mối quan hệ và giới tính.
2.1 Xét về địa vị xã hội
a. Thỉnh cầu đối với người có địa vị cao hơn (+P)
So sánh 2 tập dữ liệu lời thỉnh cầu của người Việt và người Mỹ đối với
tình huống 1a
b. Thỉnh cầu đối với người đồng cấp (=P)
So sánh 2 tập dữ liệu lời thỉnh cầu của người Việt nói tiếng Việt và
người Mỹ nói tiếng Anh đối với tình huống 1b
c. Thỉnh cầu đối với người cấp dưới (-P)
So sánh 2 tập dữ liệu lời thỉnh cầu người Việt nói tiếng Việt và người
Mỹ nói tiếng Anh đối với tình huống 1c.
2.2 Xét về tuổi tác
a. Thỉnh cầu đối với người lớn tuổi hơn (+A)
So sánh 2 tập dữ liệu lời thỉnh cầu của người Việt nói tiếng Việt và
người Mỹ nói tiếng Anh đối với tình huống 2a.
b. Thỉnh cầu đối với người bằng tuổi (= A)
So sánh 2 tập dữ liệu lời thỉnh cầu của người Việt nói tiếng Việt và
người Mỹ nói tiếng Anh đối với tình huống 2b.
c. Thỉnh cầu đối với người nhỏ tuổi hơn (- A)
So sánh 2 tập dữ liệu lời thỉnh cầu của người Việt nói tiếng Việt và
người Mỹ nói tiếng Anh đối với tình huống 2c.
2.3 Xét về mối quan hệ
a. Thỉnh cầu đối với người thân quen (+R)
So sánh 2 tập dữ liệu lời thỉnh cầu của người Việt nói tiếng Việt và
người Mỹ nói tiếng Anh đối với tình huống 3a.
b. Thỉnh cầu đối với người không thân quen (-R)
So sánh 2 tập dữ liệu lời thỉnh cầu của người Việt nói tiếng Việt và
người Mỹ nói tiếng Anh đối với tình huống 3b.
2.4 Xét về giới tính
a. Khi nam thỉnh cầu đối với nữ (+F)
So sánh 2 tập dữ liệu lời thỉnh cầu của người Việt nói tiếng Việt và
người Mỹ nói tiếng Anh đối với tình huống 4a.
b. Khi nam thỉnh cầu đối với nam (+M)
So sánh 2 tập dữ liệu lời thỉnh cầu của người Việt nói tiếng Việt và
người Mỹ nói tiếng Anh đối với tình huống 4b.
c. Khi nữ thỉnh cầu đối với nữ (+F)

14
So sánh 2 tập dữ liệu lời thỉnh cầu của người Việt nói tiếng Việt và
người Mỹ nói tiếng Anh đối với tình huống 4a.
d. Khi nữ thỉnh cầu đối với nam (+M)
Khi so sánh 2 tập dữ liệu lời thỉnh cầu của người Việt nói tiếng Việt và
người Mỹ nói tiếng Anh đối với tình huống 4b.
Nhận xét: Trong chương 2 luận án, chúng tôi đã tìm hiểu những đặc
điểm cấu trúc lời thỉnh cầu thu thập được qua các tình huống trong thực tế
cuộc sống của người Việt và người Mỹ sinh sống tại Thành phố Hồ Chí Minh
thông qua sự lựa chọn chiến lược thỉnh cầu trong quan hệ địa vị xã hội, tuổi
tác, mối quan hệ và giới tính.
Phần nhận xét này sẽ lần lượt xem lại các tình huống được thiết lập đã
nêu trên.
Thứ nhất, với cụm tình huống có thiết lập +P, chúng tôi thấy rằng dù
người Việt sử dụng rất nhiều chiến lược thỉnh cầu trực tiếp đối với người có
địa vị xã hội cao hơn nhưng tính lịch sự trong lời thỉnh cầu không giảm.
Người Việt dùng từ xưng hô với việc lấy xưng hô như mối quan hệ trong gia
đình để xưng hô với người có địa vị cao hơn.
Hai là, trong cụm tình huống =P, người Mỹ khi thực hiện lời thỉnh cầu
đối với người đồng cấp thường thích lựa chọn chiến lược thỉnh cầu gián tiếp
ước lệ thông qua dạng câu hỏi để làm giảm nhẹ mức độ áp đặt lên người nghe,
người nhận thông tin, giảm mức độ đe dọa thể diện của người nghe bằng cách
tạo cho người nghe cơ hội có thể từ chối lời thỉnh cầu. Người Việt ít sử dụng
chiến lược thỉnh cầu gián tiếp hơn, thay vào đó họ thích sử dụng chiến lược
thỉnh cầu trực tiếp.
Ba là, đối với tình huống –P, khi thực hiện lời thỉnh cầu đối với cấp
dưới, người Việt thường sử dụng chiến lược thỉnh cầu trực tiếp và ít sự dụng
chiến lược thỉnh cầu gián tiếp ước lệ, và rất ít sử dụng chiến lược thỉnh cầu
gián tiếp phi ước lệ, trong khi đó người Mỹ ưa thích sử dụng chiến lược thỉnh
cầu gián tiếp ước lệ hơn và chiến lược thỉnh cầu gián tiếp phi ước lệ.
Bốn là, trong nhóm cụm từ tình huống +A, khi thực hiện lời thỉnh cầu
đối với người lớn tuổi hơn, người Việt vẫn có khuynh hướng thích sử dụng
chiến lược thỉnh cầu trực tiếp hơn trong khi đó người Mỹ sử dụng chiến thuật
này, họ vẫn thích chiến thuật thỉnh cầu gián tiếp ước lệ và chiến lược thỉnh cầu
gián tiếp phi ước lệ.
Năm là, đối với cụm từ có thiết lập = A, người Việt khi thực hiện lời
thỉnh cầu đối với người bằng tuổi thường ưa chuộng sử dụng chiến lược thỉnh
cầu trực tiếp còn người Mỹ lại không có sự thay đổi đáng kể trong việc lựa

15
chọn chiến lược thỉnh cầu trực tiếp, chiến lược thỉnh cầu gián tiếp ước lệ cũng
có phần cao hơn một ít.
Sáu là, cụm từ tình huống - A, người Việt khi thực hiện lời thỉnh cầu
đối với người nhỏ tuổi hơn thích dùng chiến thuật thỉnh cầu trực tiếp, người
Mỹ cũng có khuynh hướng sử dụng chiến lược thỉnh cầu trực tiếp ít hơn, tuy
nhiên có tăng việc sử dụng chiến lược thỉnh cầu trực tiếp hơn khi thực hiện lời
thỉnh cầu đối với người lớn tuổi và người bằng tuổi, nhưng tỉ lệ người Mỹ sử
dụng chiến lược thỉnh cầu trực tiếp đối với người nhỏ tuổi hơn cũng thấp hơn
người Việt trong cùng tình huống.
Bảy là, trong các tình huống +R, khi thực hiện lời thỉnh cầu đối với
người thân quen, người Việt lại càng thích lựa chọn chiến lược thỉnh cầu trực
tiếp. Ngược lại người Mỹ khi thực hiện thỉnh cầu với người thân quen họ có
khuynh hướng sử dụng chiến lược thỉnh cầu gián tiếp ước lệ với và chiến lược
thỉnh cầu gián tiếp phi ước lệ, còn người Việt khi đã thân quen họ thường ít sử
dụng chiến lược thỉnh cầu gián tiếp ước lệ và chiến lược thỉnh cầu gián tiếp
phi ước lệ hơn.
Tám là, đối với tình huống -R, khi thực hiện lời thỉnh cầu đối với người
không thân quen, phần trăm số người Việt lựa chọn chiến lược thỉnh cầu trực
tiếp tuy có giảm nhưng vẫn ở mức trên trung bình, trong khi đó người Mỹ thể
hiện sự ưa thích lựa chọn chiến lược thỉnh cầu gián tiếp ước lệ một cách rõ rệt
và ít lựa chọn chiến lược thỉnh cầu trực tiếp.
Chín là, trong tình huống +F, đối với nhóm nam thỉnh cầu với nữ, nhóm
người Việt nói tiếng Việt vẫn ưa chuộng thỉnh cầu trực tiếp, trong khi đó
người Mỹ nói tiếng Anh lại thích lựa chọn chiến lược thỉnh cầu gián tiếp hơn.
Mười là, tình huống +M, đối với nhóm nam thỉnh cầu với nam, không
có sự thay đổi lớn trong việc lựa chọn chiến lược thỉnh cầu của người Việt và
người Mỹ, có một sư gia tăng rất nhỏ trong việc lựa chọn chiến lược thỉnh cầu
trực tiếp của người Việt. Người Mỹ vẫn ưu tiên lựa chọn chiến lược thỉnh cầu
gián tiếp ước lệ.
Tiếp theo, cụm tình huống +F, đối với nhóm nữ thỉnh cầu với nữ,
không thấy sự thay đổi lớn trong việc lựa chọn chiến lược thỉnh cầu do ảnh
hưởng sự thay đổi giới thính đối với cả nhóm người Việt và người Mỹ. Người
Việt vẫn có khuynh hướng thích chiến lược thỉnh cầu trực tiếp và người Mỹ có
một sự gia tăng nhẹ trong việc ưu tiến lựa chọn chiến lược thỉnh cầu gián tiếp.
Cuối cùng, đối với cụm tình huống có thiết lập +M, đối với nhóm nữ
thỉnh cầu với nam, chiến lược thỉnh cầu gián tiếp được ưa chuộng trong nhóm
nữ thỉnh cầu với nam, với nhóm người Việt và không có sự thay đổi so với

16
nhóm nữ thỉnh cầu với nữ. Với nhóm người Mỹ, họ vẫn ưa chuộng chiến lược
thỉnh cầu gián tiếp ước lệ với tỉ lệ rất cao.
Tiểu kết
Trong chương hai của luận án, chúng tôi đã khảo sát chiến lược thỉnh
cầu và đã chỉ ra những sự khác biệt trong việc lựa chọn chiến lược thỉnh cầu
của người Việt và người Mỹ khi quan hệ xã hội khác nhau: địa vị, tuổi tác,
mối quan hệ và giới tính.
Rõ ràng là người Việt sử dụng rất nhiều chiến lược thỉnh cầu trực tiếp
không những đối với người đồng cấp và đối với người cấp dưới mà cả đối với
người có địa vị cao hơn nhưng tính lịch sự trong lời thỉnh cầu không giảm.
Khi thực hiện chiến lược thỉnh cầu với người lớn tuổi hơn, người Việt
vẫn ưa chuộng cách thực hiện lời thình cầu trực tiếp, nhưng không thể nói vì
thế mà tính lịch sự trong lời thỉnh cầu của người Việt bị hạn chế. Người Việt
và người Mỹ có những ưu tiên lựa chọn chiến lược thỉnh cầu khi có sự thay
đổi khi quan hệ xã hội khác nhau: địa vị, tuổi tác, mối quan hệ và giới tính.
CHƯƠNG 3. THÀNH PHẦN ĐIỀU BIẾN LỰC NGÔN TRUNG TRONG
LỜI THỈNH CẦU CỦA NGƯỜI VIỆT VÀ NGƯỜI MỸ
Chương 2 tập trung nghiên cứu thành phần điều biến lực ngôn trung trong lời
thỉnh cầu của người Việt và người Mỹ khi các biến số xã hội thay đổi như: địa
vị, tuổi tác, mối quan hệ và giới tính.
3.1. Thành phần điều biến lực ngôn trung nội bộ
3.1.1. Xét về địa vị
a. Khi thỉnh cầu với người có địa cao hơn (+P)
b. Khi thỉnh cầu với người đồng cấp (=P)
c. Khi thỉnh cầu với người cấp dưới (-P)
3.1.2. Xét về tuổi tác
a. Khi thỉnh cầu với người lớn tuổi hơn (+A)
b. Khi thỉnh cầu với người bằng tuổi (=A)
c. Khi thỉnh cầu với người nhỏ tuổi hơn (-A)
3.1.3. Xét về mối quan hệ
a. Khi thỉnh cầu với người thân quen (+R)
b. Khi thỉnh cầu với người không thân quen (-R)
3.12.4. Xét về giới tính
a. Khi nam thỉnh cầu với nữ (+F)
b. Khi nữ thỉnh cầu với nữ (+F)
c. Khi nam thỉnh cầu với nam (+M)

17
d. Khi nữ thỉnh cầu với nam (+M)
3.2. Thành phần điều biến lực ngôn trung ngoại vi
3.2.1. Xét về địa vị
a. Khi thỉnh cầu với người có địa cao hơn (+P)
b. Khi thỉnh cầu với người đồng cấp (=P)
c. Khi thỉnh cầu với người cấp dưới (-P)
3.2.2. Xét về tuổi tác
a. Khi thỉnh cầu với người lớn tuổi hơn (+A)
b. Khi thỉnh cầu với người bằng tuổi (=A)
c. Khi thỉnh cầu với người nhỏ tuổi hơn (-A)
3.2.3. Xét về mối quan hệ
a. Khi thỉnh cầu với người thân quen (+R)
b. Khi thỉnh cầu với người không thân quen (-R)
Tiểu kết
Thành phần điều biến lực ngôn trung cũng góp phần không nhỏ thể
hiện tính lịch sự trong lời thỉnh cầu khi các biến số thay đổi: địa vị, tuổi tác,
mối quan hệ và giới tính. Lực ngôn trung người nghe tiếp nhận được chỉ là lực
ngôn trung thứ cấp. Dưới sự tác động của tương quan địa vị, mối quan hệ và
mức độ áp đặt của lời thỉnh cầu trong những ngữ cảnh cụ thể, các thành phần
điều biến lực ngôn trung sẽ tham gia làm tăng hoặc giảm lực ngôn trung
nguyên cấp, chuyển đổi lực ngôn trung nguyên cấp thành lực ngôn trung thứ
cấp. Điều đó cũng có nghĩa là lực ngôn trung nguyên cấp không bao giờ sinh ra
lực tác động giống nhau đối với người nghe, bởi vì các yếu tố tác động lên lời
thỉnh cầu luôn thay đổi. Khi tương quan địa vị thay đổi, lời thỉnh cầu cũng thay
đổi về cấu trúc thành phần mệnh đề chính cũng như sự lựa chọn các thành phần
điều biến lực ngôn trung. Bên cạnh thành phần cốt lõi trong cấu trúc thỉnh cầu
thì thành phần điều biến lực ngôn trung đóng vai trò cũng không kém phần
quan trọng. Người Việt và người Mỹ đều có những phương sách làm dịu mức
độ phương hại thể diện bằng cách dùng các công cụ ngôn ngữ và dùng các biện
pháp tu từ: trước tiên phải kể đến việc dùng từ xưng hô của người Việt. Trong
tiếng Việt, hệ thống từ xưng hô đa dạng, phong phú góp phần không nhỏ đến
việc điều biến lực ngôn trung trong những lời thỉnh cầu trực tiếp. Trong giao
tiếp, việc lựa chọn từ xưng hô thích hợp có vai trò quan yếu có thể điều hòa các
quan hệ xã hội, trong đó có phép lịch sự,… đặc biệt trong tiếng Việt với sự đa
dạng của và mang đậm nét văn hóa của từ xưng hô thì tính lịch sự trong phát
ngôn đặc biệt trong lời thỉnh cầu càng được thể hiện rõ. Thực tế việc sử dụng
ngôn ngữ đã đặt ra hàng loạt vấn đề có liên quan đến việc lựa chọn ngôn từ nói

18
chung và ngay cả từ xưng hô nói riêng, tưởng chừng như không mấy quan
trọng trong phát ngôn nhưng lại chứa đựng những đặc điểm văn hóa quan
trọng, góp phần để đạt được lịch sự trong giao tiếp nói chung, và trong lời
thỉnh cầu nói riêng. Trong những nghi thức như: mời, cám ơn, xin lỗi, chê,
thỉnh cầu… và để hiểu vai trò của từ xưng hô trong giao tiếp, hẳn chúng ta phải
xem xét một cách toàn diện, chứ không nên chỉ dừng lại ở một số phương diện
đơn lẽ nào đó. Một lời thỉnh cầu trực tiếp trong tiếng Việt tuy bản chất là áp đặt
lên người nghe, người nhận thông tin, tuy nhiên mức độ áp đặt của lời thỉnh
cầu ấy khi có sự xuất hiện của từ xưng hô ít nhiều đã làm biến đổi thang độ
lịch sự của lời thỉnh cầu.
CHƯƠNG 4. TÍNH LỊCH SỰ VÀ NHỮNG ĐẶC ĐIỂM VĂN HÓA
TRONG LỜI THỈNH CẦU CỦA NGƯỜI VIỆT VÀ NGƯỜI MỸ
4.1. Xưng hô trong lời thỉnh cầu của người Việt và người Mỹ
Mỗi ngôn ngữ trên thế giới đều có những từ xưng hô để nhận diện các
đối tượng, các nhân vật liên quan đến người nói trong giao tiếp. Các từ xưng
hô được sử dụng trong giao tiếp nói chung và trong lời thỉnh cầu nói riêng
không chỉ có chức năng xác định đối tượng hướng đến mà còn nói lên cả mối
quan hệ giữa người nói và người nghe cũng như thái độ của người nói là thân
mật hay xa lạ, lịch sự hay không lịch sự, kính trọng hay coi thường… Bởi vậy
cách xưng hô cũng là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới lời thỉnh cầu, hay
nói một cách đơn giản là ảnh hưởng tới mức độ thành công hay thất bại của
thỉnh cầu. Song ở mỗi cộng đồng có nền văn hóa khác nhau thì cách xưng hô
cũng khác nhau, cụ thể ở đây là trường hợp của người Việt Nam và người Mỹ.
Xét từ xưng hô trong lời thỉnh cầu:
Từ xưng tiếng Anh mang sắc thái trung tính, không thể hiện quan hệ
hay tình cảm giữa người nói và người nghe hoặc với đối tượng giữa các đối
tượng tham gia giao tiếp. Còn trong tiếng Việt, cách xưng hô của người Việt
với một lượng lớn các từ ngữ, thường được thực hiện trên một giả định, dùng
quan hệ gia đình để giao tiếp xã hội, từ xưng hô thể hiện rõ mối quan hệ và
tình cảm giữa các đối tượng tham gia quá trình giao tiếp, và tùy hoàn cảnh mà
lựa chọn cho phù hợp, đồng thời ở đây thể hiện rõ tính lịch sự trong giao tiếp.
Qua quan sát và thu thập những lời thỉnh cầu trong giao tiếp hằng ngày và qua
những tác phẩm văn học, truyện, phim, có thể nói từ xưng hô trong tiếng Việt
được thể hiện rất đa dạng mang đậm nét văn hóa của con người Việt Nam,
trọng tình cảm, trọng lễ nghĩa.
Có thể thấy, người Việt bao giờ cũng chú trọng đến cách xưng hô, bởi
lẽ xưng hô có thể coi là một yếu tố để đánh giá về khả năng ứng xử và trình độ
văn hóa của con người. Chính vì vậy, xưng hô phải làm sao đảm bảo được tính