Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học đại số 10 (2018)
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA TOÁN
*************
ĐẶNG QUỲNH TRANG
SỬ DỤNG SƯ ĐỒ TƯ DUY
TRONG DẠY HỌC ĐẠI SỐ 10
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Phương pháp dạy học Toán
HÀ NỘI – 2018
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA TOÁN
*************
ĐẶNG QUỲNH TRANG
SỬ DỤNG SƯ ĐỒ TƯ DUY
TRONG DẠY HỌC ĐẠI SỐ 10
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Phương pháp dạy học Toán
Người hướng dẫn khoa học
TS. PHẠM THỊ DIỆU THÙY
HÀ NỘI – 2018
LỜI CẢM ƠN
Trong quá triǹ h ho ̣c tâ ̣p và nghiên cứu hoàn thành khóa luâ ̣n với đề tài “Sử
dụng sơ đồ tư duy trong dạy học Đại số 10”, ngoài sự cố gắ ng của bản thân, em
còn nhâ ̣n đươ ̣c sự giúp đỡ của thầ y giáo, cô giáo và ba ̣n bè.
Em xin bày tỏ lòng kính tro ̣ng và biế t ơn sâu sắ c tới cô giáo - T.S Phạm Thị
Diệu Thùy đã định hướng và tâ ̣n tin
̀ h giúp đỡ, chỉ dẫn em trong suố t quá trin
̀ h
nghiên cứu và hoàn thành khóa luâ ̣n.
Đồ ng thời em xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu trường Đa ̣i ho ̣c Sư
pha ̣m Hà Nô ̣i 2, các thầy cô giáo trong khoa Toán cùng các thầ y cô bộ môn Phương
pháp dạy học môn Toán đã tâ ̣n tình giảng da ̣y và giúp đỡ em trong suố t quá trình
ho ̣c tâ ̣p, nghiên cứu và hoàn thành khóa luâ ̣n này.
Do thời gian và kiến thức có hạn nên khóa luận của em không tránh khỏi còn
nhiều hạn chế và thiếu sót cần được góp ý và sửa chữa, em rất mong nhận được
những ý kiến đóng góp quý báu của các thầy cô giáo.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 5 năm 2018
Sinh viên
Đặng Quỳnh Trang
LỜI CAM ĐOAN
Em xin cam đoan:
Khóa luâ ̣n tố t nghiê ̣p với đề tài “Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học Đại
số 10”, đươ ̣c hoàn thành với sự cố gắ ng của bản thân cùng với sự giúp đỡ tâ ̣n tin
̀ h
của cô giáo, T.S Phạm Thị Diệu Thùy, em xin cam đoan khóa luâ ̣n này là thành quả
của quá triǹ h làm viê ̣c nghiêm túc của bản thân và nô ̣i dung của khóa luâ ̣n không
trùng lă ̣p với các công triǹ h nghiên cứu của các tác giả trước đã công bố .
Hà Nội, tháng 5 năm 2018
Sinh viên
Đặng Quỳnh Trang
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Giáo viên
GV
Học sinh
HS
Sơ đồ tư duy
SĐTD
Phương pháp dạy học
PPDH
Trung học phổ thông
THPT
Giá trị lượng giác
GTLG
Ví dụ
VD
Hoạt động
HĐ
MỤC LỤC
Nội dung
Trang
MỞ ĐẦU...................................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ...................................................................................................... 1
2. Đối tượng nghiên cứu.............................................................................................. 3
3. Mục địch nghiên cứu ............................................................................................... 3
4. Nhiệm vụ khoa học ................................................................................................. 3
5. Phương pháp nghiên cứu......................................................................................... 3
6. Giả thuyết nghiên cứu ............................................................................................. 3
7. Phạm vi nghiên cứu ................................................................................................. 3
8. Cấ u trúc của khóa luâ ̣n ............................................................................................4
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC ỨNG DỤNG SƠ ĐỒ
TƯ DUY TRONG DẠY HỌC TOÁN ..........................................................................5
1.1 . Định hướng đổi mới phương pháp dạy học môn Toán hiện nay .........................5
1.2 . Giới thiệu sơ đồ tư duy ........................................................................................8
1.3. Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học ................................................................. 22
Kết luận chương 1 .................................................................................................... 31
CHƯƠNG 2: BIỆN PHÁP SỬ DỤNG SƠ ĐỒ TƯ DUY VÀO DẠY HỌC MỘT SỐ
TÌNH HUỐNG ĐIỂN HÌNH TRONG CHƯƠNG TRÌNH ĐẠI SỐ 10…. ................ 32
2.1 . Các căn cứ để xây dựng các biện pháp ............................................................. 32
2.2. Một số tình huống dạy học sử dụng SĐTD trong chương trình Đại số 10….37
2.3. Một số điểm cần lưu ý khi dạy học Đại số lớp 10 bằng SĐTD ........................ 55
Kết luận chương 2 .................................................................................................... 56
CHƯƠNG 3: THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM .............................................................. 57
3.1. Mục đích, yêu cầu, nhiệm vụ thực nghiệm ....................................................... 57
3.2. Tổ chức thực nghiệm......................................................................................... 57
3.3. Nội dung thực nghiệm ....................................................................................... 58
3.4. Kết quả thực nghiệm ......................................................................................... 65
Kết luận chương 3 .................................................................................................... 67
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ................................................................................... 68
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................... 69
PHỤ LỤC ................................................................................................................. 70
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong những năm gần đây, Đảng và nhà nước ta đặc biệt coi trọng sự nghiệp
giáo dục, coi con người là mục tiêu, là động lực của sự phát triển, coi giáo dục - đào
tạo (GD-ĐT) là quốc sách hàng đầu. Xã hội ngày càng phát triển, yêu cầu nhận thức
của con người nói chung và của học sinh nói riêng ngày càng cao, việc lĩnh hội kiến
thức của các em cũng ngày càng chủ động hơn. Đây chính là những cơ hội cũng là
những thách thức mới đòi hỏi ngành GD-ĐT phải có nhiều đổi mới, và người truyền
tải kiến thức – giáo viên cũng phải thường xuyên đổi mới phương pháp dạy học
theo hướng tích cực hơn.
Cuốn “Giáo dục: Xin cho tôi được nói thẳng” [12, tr.15], giáo sư Hoàng Tụy
đã nói: “Phương pháp và cả nội dung giảng dạy của một số môn có nhiều cái cũ kĩ,
lại nặng về nhồi nhét, ít chú ý rèn luyện khả năng tư duy độc lập, khả năng tìm tòi
tự học, tự nghiên cứu”. Trong Điều 24, mục 2 Luật giáo dục (do Quốc hội khoá X
thông qua) cũng đã chỉ rõ: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính
tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh, phù hợp với đặc điểm của từng
lớp học, môn học, bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm,
rèn luyện kĩ năng, vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại
niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”. Như vậy, ngoài việc vận dụng sáng tạo
các PPDH theo hướng tích cực, giáo viên còn phải biết bồi dưỡng cho học sinh
thêm phương pháp tự học, để các em có thể phát huy tốt nhất trí sáng tạo của mình
trong học tập.
Sơ đồ tư duy được tác giả Tony Buzan (người Anh) phát minh và bắt đầu được
phổ biến rộng rãi trên thế giới vào năm 2000. Từ năm 2007, khi SĐTD được biết
đến và sử dụng ở Việt Nam, đã có nhiều công trình nghiên cứu, vận dụng SĐTD
trong nhiều lĩnh vực được ra đời. Trong ngành giáo dục có thể kể đến rất nhiều luận
án, luận văn ở nhiều môn học được triển khai. Riêng với môn Toán, có thể kể đến
những công trình như các bài báo về việc sử dụng SĐTD trong dạy học của các tác
giả Trần Đình Châu, Đặng Thị Thu Thủy, Chu Cẩm Thơ được đăng trên Tạp chí
1
Giáo dục, hay cuốn sách đã xuất bản có: “Thiết kế BĐTD dạy – học môn Toán” của
hai tác giả Trần Đình Châu, Đặng Thị Thu Thủy, NXB Giáo dục Việt Nam phát
hành năm 2011.
Theo Tony Buzan, “một hình ảnh có giá trị hơn cả ngàn từ” và “màu sắc cũng
có tác dụng kích thích não như hình ảnh. Mùa sắc mang đến cho sơ đồ tư duy
những rung động cộng hưởng, mang lại sức sống và năng lượng vô tận cho tư duy
sáng tạo.” [8, tr.5]. Vì vậy, việc sử dụng SĐTD khi dạy học mang lại hiệu quả cao,
không chỉ giúp học sinh phát triển tư duy môn Toán mà còn là nền tảng giúp các em
tiếp cận những môn khoa học khác một cách dễ dàng, hay chỉ đơn giản là các em
lập thời khóa biểu hàng ngày hay kế hoạch học tập. Chính điều này đã đáp ứng
được nhu cầu đổi mới PPDH của thực tiễn nước ta và được áp dụng thí điểm thành
công tại nhiều địa phương trên cả nước.
Ở cấp THPT, học sinh phải chủ động hoạt động để chiếm lĩnh tri thức cho bản
thân. Khi bắt đầu vào lớp 10 THPT, học sinh sẽ được đi sâu và chính xác hóa một
số kiến thức đã học, đồng thời các em cũng được tiếp cận với nhiều kiến thức mới
lạ và khó, nếu không có phương pháp gây sự hứng thú trong học tập với các em,
môn Toán sẽ ngày càng trở nên khô khan và nhàm chán. Trong khi đó, chương trình
Toán phổ thông nói chung và Toán lớp 10 nói riêng đã được giảm tải, giảm bớt việc
cung cấp tri thức theo kiểu có sẵn, mà thay vào đó là cung cấp thông tin và yêu cầu
học sinh hoạt động để hình thành tri thức mới. Vậy làm thế nào để có thể giúp HS
có khả năng tự học, tiếp thu kiến thức mới một cách sâu sắc, có thể tự bổ sung thêm
kiến thức mới cho bản thân hay phát triển ý tưởng mới như thế nào? Từ câu hỏi
trên, việc sử dụng SĐTD là giải pháp đúng đắn kịp thời trong dạy học môn Toán ở
THPT hay cả những cấp học khác.
Hiện nay với công cuộc đổi mới PPDH tích cực, đã có khá nhiều các công
trình nghiên cứu về việc sử dụng SĐTD trong giảng dạy môn Toán và chương trình
Toán 10, đặc biệt là phần Đại số. Trong chương trình Đại số 10 có khá nhiều chủ đề
phù hợp có thể dạy học bằng SĐTD. Mặt khác, với đối tượng là học sinh lứa tuổi
THPT, việc tiếp xúc và làm quen với phương pháp dạy học mới và sử dụng các
2
phương tiện công nghệ thông tin sẽ giúp các em học tập tốt hơn, rèn luyện khả năng
tự học và dần dần tự hoàn thiện vốn kiến thức để thành nền tảng vững chắc cho
những lớp tiếp theo.
Với mong muốn giúp tăng sự hứng thú trong học tập môn Toán của học sinh,
đồng thời qua đó đóng góp một phần nhỏ vào quá trình đổi mới PPDH theo hướng
tích cực nên đề tài em chọn là: “Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học Đại số 10”.
2. Đối tượng nghiên cứu
- Sơ đồ tư duy
- Nội dung dạy học Đại số 10 THPT
3. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất phương pháp hướng dẫn học sinh THPT thiết kế và sử dụng sơ đồ tư
duy trong khi học Đại số 10.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu phương pháp ghi nhớ, tóm tắt, hệ thống hóa bằng sơ đồ tư duy.
- Nghiên cứu nội dung dạy học chương trình Đại số 10.
- Đề xuất một số biện pháp hướng dẫn học sinh tiếp cận và sử dụng sơ đồ tư duy
khi học tập chương trình Đại số 10.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Nghiên cứu lí luận.
- Thực nghiệm sư phạm.
6. Giả thuyết khoa học
Nếu GV và HS biết cách sử dụng linh hoạt SĐTD trong dạy học môn Toán nói
chung và chương trình Đại số 10 nói riêng thì sẽ góp phần thúc đẩy và nâng cao
phương pháp dạy và học, đồng thời giúp HS có được phương pháp tự học, tự đọc tốt
hơn, từ đó có thể phát huy tính tích cực, sáng tạo và chủ động cho HS.
7. Phạm vi nghiên cứu
- Chương trình Đại số 10 – Chương trình chuẩn bằng sơ đồ tư duy.
- Thực nghiệm sư phạm tại trường THPT Đông Anh, Đông Anh, Hà Nội.
3
8. Cấu trúc của khóa luận
Ngoài phầ n mở đầ u, kế t luâ ̣n, tài liê ̣u tham khảo và phu ̣ lu ̣c, khóa luâ ̣n gồ m ba
chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn của việc ứng dụng sơ đồ tư duy trong dạy
học toán
Chương 2: Biện pháp sử dụng sơ đồ tư duy vào dạy học một số tình huống
điển hình trong chương trình Đại số 10
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm
Kết luận và kiến nghị
Tài liệu tham khảo
Phụ lục
4
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
CỦA VIỆC ỨNG DỤNG SƠ ĐỒ TƯ DUY TRONG DẠY HỌC TOÁN
Ở chương đầu tiên này, khóa luận sẽ trình bày về cơ sở lí luận và thực tiễn
của việc ứng dụng sơ đồ tư duy trong dạy học toán. Trong đó, đầu tiên là nói về
định hướng đổi mới PPDH môn Toán trong giai đoạn hiện nay. Tiếp theo là giới
thiệu về sơ đồ tư duy – một trong các PPDH tích cực đã và đang được áp dụng khá
phổ biến trong nhiều lĩnh vực ở nước ta. Cuối cùng là trình bày về việc sử dụng sơ
đồ tư duy trong dạy học.
1.1.
Định hướng đổi mới phương pháp dạy học môn Toán hiện nay
Định hướng đổi mới PPDH môn Toán trong giai đoạn hiện nay là tích cực hóa
hoạt động học tập của HS, tư tưởng chủ đạo là phát huy tính tích cực, tự giác, chủ
động, sáng tạo, đem lại hứng thú học tập cho HS.
Việc thực hiện đổi mới PPDH môn toán ở trường THPT đang thực hiện bước
chuyển từ chương trình giáo dục tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực của người
học, nghĩa là từ chỗ quan tâm đến việc HS học được cái gì đến chỗ quan tâm HS
vận dụng được cái gì qua việc học. GV đã quan tâm hơn đến việc đặt vấn đề, dùng
hệ thống câu hỏi dẫn dắt học sinh thông qua trao đổi, gợi mở, chú trọng việc đặt câu
hỏi và hướng dẫn học sinh tự học ở nhà. Về hình thức tổ chức dạy học môn toán đã
sinh động, đa dạng hơn. Bên cạnh các hình thức học tập truyền thống, HS được thảo
luận theo nhóm. Tuy nhiên, về bản chất, hoạt động của GV vẫn đang tổ chức theo
kiểu "truyền thụ một chiều". Khi sử dụng phương pháp này thì HS trở nên thụ động,
thiếu độc lập, chưa phản ánh được những nét đặc thù của việc dạy học môn toán.
Do vậy để HS chủ động, tích cực và sáng tạo hơn trong học tập thì việc tất yếu là
phải đổi mới PPDH.
Đối với học sinh đổi mới PPDH là:
- Học tập một cách tích cực, chủ động, biết phát hiện và giải quyết vấn đề, phát triển
tư duy linh hoạt, sáng tạo, hình thành và phát huy phương pháp tự học.
Đối với giáo viên đổi mới PPDH là:
5
- Thay đổi quan niệm dạy học theo kiểu truyền thụ một chiều, hướng tới dạy người
học biết phát hiện và giải quyết vấn đề.
- Có nhiều hình thức tổ chức dạy học phong phú và đa dạng hơn nữa.
- Nâng cao kĩ năng trong việc sử dụng các phương tiện dạy học, công nghệ thông
tin, tăng cường tri thức toán gắn liền với thực tiễn.
- GV tự lựa chọn PPDH theo: nội dung, sở trường, đối tượng học sinh, điều kiện
trang thiết bị,… trong hoàn cảnh địa phương. [4]
Việc đổi mới PPDH được xem như là chìa khóa để nâng cao chất lượng giáo
dục. Bộ Giáo dục và Đào tạo có chủ trương đổi mới nội dung và PPDH như giảm
tải nội dung sách giáo khoa tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên và khuyến khích
sử dụng các PPDH tích cực. PPDH toán học rất đa dạng và ngày càng được sáng tạo
thêm trong các bài giảng. Vì thế, việc đổi mới PPDH cần tiếp tục kế thừa, phát huy
những mặt tích cực của nền tảng PPDH quen thuộc (PP vấn đáp, PP thuyết
trình….), đồng thời cần học hỏi và kết hợp vận dụng các PPDH mới (Dạy và học
phát hiện và giải quyết vấn đề, Dạy và học hợp tác trong nhóm nhỏ…..) sao cho phù
hợp với hoàn cảnh, mục tiêu, bản chất của vấn đề cần trao đổi, phù hợp với thành
phần nhóm lớp học, các thiết bị công nghệ sẵn có.
6
Hình 1.1. Đổi mới PPDH (Nguồn: TS. Đặng Thị Thu Thủy)
7
Đặc biệt trong dạy học toán ở nước ta còn chú trọng nhiều về thuật toán, kiến
thức truyền thụ cho học sinh còn có tính chất áp đặt, các câu hỏi đặt ra thường riêng
lẻ, mang tính gợi nhớ và nhắc lại về kiến thức. Những PPDH có khả năng phát huy
tính tích cực, độc lập, sáng tạo ở HS như dạy học giải quyết vấn đề, dạy học theo
nhóm…thì ít được GV sử dụng.
Phương tiện dạy học có vai trò quan trọng trong việc đổi mới PPDH, nhằm
tăng cường tính trực quan và thí nghiệm, thực hành trong dạy học. Với điều kiện
thiết bị công nghệ thông tin hiện nay, đa số phòng học đều có trang bị máy chiếu
nên rất thuận tiện cho GV và HS khi áp dụng phương pháp giảng dạy có sử dụng
SĐTD. Một số phần mềm SĐTD được phổ biến rộng rãi đã hỗ trợ cho GV và HS
khi trình bày SĐTD trên máy chiếu. GV sử dụng SĐTD vào trong bài học, trong ôn
tập chương, hệ thống hóa kiến thức, soạn ghi chú bài giảng, hay trong kiểm tra đánh
giá… GV sử dụng SĐTD theo nhiều cách để làm cho bài học sinh động và hấp dẫn
hơn. Tuy nhiên, việc sử dụng SĐTD ở hầu hết các trường THPT trên cả nước vẫn
còn hạn chế do GV chưa nhận thấy được tầm quan trọng của việc sử dụng SĐTD.
Đổi mới PPDH với sơ đồ tư duy giúp cho GV đổi mới PPDH, giúp học sinh
chủ động, tích cực và sáng tạo hơn trong học tập. Đó chính là một trong những cách
làm thiết thực triển khai nội dung dạy học có hiệu quả - nội dung quan trọng nhất
trong năm nội dung của phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học
sinh tích cực” mà Bộ Giáo dục và Đào tạo đang phát động.
1.2.
Giới thiệu sơ đồ tư duy
1.2.1. Việc sử dụng sơ đồ trong biểu đạt tư duy
Năm 1983, giáo sư của trường đại học Harvard, Howard Gardner đưa ra học
thuyết về Trí thông minh đa dạng gồm bảy trí thông minh trong cuốn: Các khuôn
khổ của trí tuệ: Lý thuyết đa trí tuệ (Frames of Mind: The Theory of Multiple
intelligences). Năm 1996 ông tiếp tục đưa ra thêm: Trí thông minh về tự nhiên.
Theo đó, Gardner cho rằng mỗi con người có thể biểu đạt tri thức của mình theo
tám cách khác nhau, thông qua:
- Trí thông minh ngôn ngữ
8
- Trí thông minh logic – toán học
- Trí thông minh về âm nhạc
- Trí thông minh về thể chất
- Trí thông minh về không gian
- Trí thông minh về giao tiếp xã hội
- Trí thông minh nội tâm
- Trí thông minh tự nhiên
Trong đó, phần lớn những tri thức của con người được biểu đạt thông qua trí
thông minh ngôn ngữ biểu hiện bởi các hoạt động ngôn ngữ. Tuy nhiên, không phải
ai cũng có thể diễn giải những suy nghĩ của mình thông qua ngôn ngữ làm cho
người nghe hiểu được, khi khả năng trình bày ngôn từ bị hạn chế ở mức tối đa, con
người cần phải tìm ra những phương tiện biểu đạt khác để truyền tải tri thức của
mình. Khi đó con người cần phát triển trí thông minh về không gian, cho phép họ
thể hiện thông tin, tri thức theo nhiều chiều hướng khác nhau. [9]
Cuộc bùng nổ sáng tạo thời phục hưng được gắn chặt với việc ghi chép và
truyền tải một lượng khổng lồ kiến thức theo một ngôn ngữ song song, ngôn ngữ
của hội họa, đồ thị và biểu đồ – ví dụ như những sơ đồ nổi tiếng của da Vinci hay
Galileo. Galileo đã cách mạng lại khoa học bằng cách thể hiện những suy nghĩ của
mình thông qua các biểu đồ, đồ thị và bản vẽ trong khi những người cùng thời sử
dụng cách tiếp cận bằng lời nói hay các công thức toán học. Khi Einstein suy nghĩ
về một vấn đề, ông luôn thấy cần phải mô hình đối tượng của mình theo nhiều cách
nhất có thể, bao gồm các biểu đồ. Tư tưởng thị giác tốt giúp ông suy nghĩ dưới các
hình thức trực quan và không gian chứ không đơn thuần là những công thức toán
học hay ngôn ngữ logic. [13]
Hơn nữa, lịch sử đã chứng kiến những thiên tài như Einstein, Edison hay
Leonardo da Vinci đã phác thảo những phát minh vĩ đại không phải bằng ngôn ngữ
mà bằng sơ đồ và bản đồ.
9
Hình 1.2. Bản vẽ bóng đèn tròn trong sổ tay của Thomas Edison năm 1880
Hình 1.3. Bản vẽ máy biết bay của Leonardo da Vinci
Thực tế trong quá trình dạy học cũng đã chứng minh, nếu người học được cung
cấp tri thức dưới dạng một sơ đồ hệ thống thì họ sẽ có được một bản đồ tri thức.
Trước đây ta có thể thấy, những sơ đồ hệ thống được đưa ra dưới dạng khô cứng
dẫn tới sự tẻ nhạt trong quá trình nhận thức (sơ đồ nhánh, sơ đồ cây,…). Trong khi
HS lứa tuổi THPT là lứa tuổi mới lớn, cần tiếp nhận thông tin một cách độc lập
nhưng không thể thiếu sự hấp dẫn, đòi hỏi hình thức đưa ra thông tin cũng phải
sống động và sáng tạo hơn. Với phương pháp sử dụng hiệu quả hình ảnh, sơ đồ,
10
SĐTD với thế mạnh là hiệu ứng màu sắc, hình ảnh giúp con người thoát ra khỏi sự
nhạt nhẽo của các đường thẳng, thay vào đó là các đường nét, màu sắc sống động
gây kích thích sự linh hoạt trong tổ chức và khai thác thông tin.
1.2.2. Khái niệm sơ đồ tư duy
Sơ đồ tư duy (SĐTD) còn gọi là bản đồ tư duy, lược đồ tư duy,... là hình thức
ghi chép nhằm tìm tòi, đào sâu hay mở rộng một ý tưởng, hệ thống hóa một chủ đề
hay một mạch kiến thức,... bằng cách kết hợp việc sử dụng đồng thời hình ảnh,
đường nét, màu sắc, chữ viết với sự tư duy tích cực. [8]
Tất cả các SĐTD đều giống nhau ở một số điểm [10]: chúng đều sử dụng màu
sắc, có một cấu trúc cơ bản được phát triển rộng ra từ trung tâm, chúng dùng các
đường kẻ, các biểu tượng, từ ngữ và hình ảnh theo một bộ quy tắc đơn giản, cơ bản,
tự nhiên và dễ hiểu. Đây có thể coi là ưu điểm vượt trội của SĐTD với các sơ đồ mà
chúng ta được biết trước đó như sơ đồ khối, sơ đồ hình cây,…
Đặc biệt đây là một dạng sơ đồ mở, không bắt buộc tỉ lệ và chi tiết khắt khe kĩ
càng như bản đồ địa lí, có thể vẽ thêm hoặc bỏ bớt các nhánh, mỗi người vẽ theo
một hình thức khác nhau, dùng màu sắc, hình ảnh, các cụm từ diễn đạt khác nhau,
cho dù cùng một chủ đề nhưng mỗi người có thể thể hiện nó dưới dạng SĐTD theo
một phong cách riêng của mình, do đó việc lập SĐTD sẽ giúp phát huy năng lực
sáng tạo của mỗi người một cách tối đa. SĐTD chú trọng tới các mạng lưới liên
tưởng (các nhánh) cùng với màu sắc và các hình ảnh minh họa. Khi cho một danh
sách dài những thông tin đơn điệu, sử dụng một SĐTD có thể biến chúng thành một
bản đồ sinh động, đầy màu sắc, dễ nhớ và kết cấu được tổ chức chặt chẽ. Khi đó các
kiến thức, các ý tưởng được nêu ra không còn mang tính chất liệt kê mà chúng đã
có sự kết nối, liên hệ với nhau, mà quan trọng hơn, người lập bản đồ có thể thấy
được dễ dàng sự liên hệ, kết nối này.
Có thể sử dụng SĐTD hỗ trợ dạy học kiến thức mới, củng cố kiến thức sau
mỗi tiết học, ôn tập hệ thống hóa kiến thức sau mỗi chương, mỗi học kì, tóm lược
một cuốn sách,... cũng như giúp lập kế hoạch công tác. [8]
11
Hình 1.4. Sơ đồ tư duy là gì?
Ưu điểm của SĐTD so với lối ghi chú thông thường: Tony Buzan đã chỉ ra
được bốn nhược điểm của lối ghi chú thông thường [11]:
- Việc ghi chú thông thường sẽ tạo ra một loạt các dãy dài có tính chất liệt
kê, điều này khiến cho não bộ chìm vào trong trạng thái nửa tỉnh nửa mê khi phải cố
gắng dung nạp những cái không cần thiết và do đó dẫn đến việc khó nhớ nội dung.
- Việc ghi chú thông thường làm cho từ khóa của vấn đề chìm vào một loạt
những chữ khác được trải dài trên mặt giấy, do đó việc xác định trọng tâm của vấn
đề sẽ khó khăn và mất thời gian.
- Việc ghi chú thông thường không thể hiện được sự sáng tạo, cản trở não
trong việc tìm các mối liên hệ.
- Việc ghi chú chủ động/ thụ động theo cách thông thường “trong mọi giai
đoạn đều lãng phí thời gian” vì nó: chỉ dẫn đến ghi chú cái không cần thiết, buộc ta
đọc những ghi chú không cần thiết, buộc ta phải truy tìm từ khóa.
Từ đó các ông đã chỉ ra ưu điểm của việc ghi chú theo SĐTD so với việc ghi
chú theo lối thông thường:
- SĐTD chỉ ghi chú các từ liên quan, tiết kiệm 50-95% thời gian.
- Chỉ đọc các từ liên quan, tiết kiệm hơn 90% thời gian.
- Thời gian ôn bài ghi chú dạng SĐTD tiết kiệm 90%.
12