Tầng lớp thủ lĩnh tại giao châu an nam thời đô hộ tùy đường
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
--------------------------
PHẠM LÊ HUY
TẦNG LỚP THỦ LĨNH TẠI GIAO CHÂU – AN NAM
THỜI ĐÔ HỘ TÙY ĐƯỜNG
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ
Hà Nội - 2017
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
---------------
PHẠM LÊ HUY
TẦNG LỚP THỦ LĨNH TẠI GIAO CHÂU – AN NAM
THỜI ĐÔ HỘ TÙY ĐƯỜNG
Chuyên ngành Lịch sử Việt Nam
Mã số: 62 22 03 13
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
GS.TS. NGUYỄN QUANG NGỌC
Hà Nội - 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các kết quả nghiên cứu
được trình bày trong Luận án là trung thực, khách quan và chưa từng để bảo vệ ở bất
kỳ học vị nào.
Tôi xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện Luận án đã được cảm ơn,
các thông tin trích dẫn trong Luận án này đều được chỉ rõ nguồn gốc.
Hà Nội, tháng 11 năm 2017
Tác giả luận án
PHẠM LÊ HUY
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Giáo sư hướng dẫn Nguyễn Quang Ngọc đã chỉ
dạy, hỗ trợ và tạo nhiều điều kiện cho tôi thực hiện các chuyến khảo sát tư liệu trong
quá trình thực hiện Luận án.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến Giáo sư Vũ Minh Giang, Giáo sư Vũ Văn Quân, các
giáo sư, cán bộ và anh chị em đồng nghiệp ở Khoa Lịch sử và Khoa Đông phương học
(Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội) – hai đơn
vị tôi được vinh dự làm nghiên cứu sinh và tham gia công tác.
Tôi cũng xin gửi lời tri ân đến các giáo sư đã chỉ dạy tôi trong quá trình học đại học và
cao học tại Nhật Bản là Giáo sư Shinkawa Tokio, Giáo sư Kawajiri Akio, các giáo sư
của Đại học Waseda, Đại học Meiji, Đại học Chuo, Đại học Gakushuin, Đại học
Tokyo, tất cả bạn bè Nhật Việt đã hỗ trợ và tạo điều kiện giúp tôi hoàn thành Luận án
này.
Đặc biệt, tôi xin gửi lời cảm ơn tự đáy lòng đến Ông Bà, Bố Mẹ và đặc biệt là con trai,
Phạm Lê Minh, cũng như những người thân trong gia đình luôn là nguồn động viên
tinh thần to lớn cho tôi trong cuộc sống.
Hà Nội, tháng 11 năm 2017
PHẠM LÊ HUY
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN
Bắc đồ
北圖
Chí lược
志略
Cương mục
綱目
Độc sử
讀史
Hội yếu
会要
Nguyên Hòa
元和
Nhất thống chí
一統志
Sách phủ
冊府
Sử lược
史略
TĐHBVĐULT
Toàn thư
全書
Thiền uyển
禪苑
Thông giám
通鑑
VĐUL
VĐULTL
VĐULTTB
VĐULSL
TCN
Bắc Kinh đồ thư quán tàng Trung Quốc lịch đại
thạch khắc thác bản hối biên
北京圖書館藏中國歴代石刻拓本匯編
An Nam chí lược
安南志略
Khâm định Việt sử thông giám cương mục
欽定越史通鑑綱目
Độc sử phương dư kỷ yếu
讀史方輿紀要
Đường hội yếu
唐会要
Nguyên Hòa quận huyện đồ chí
元和郡縣圖志
Đại Nam nhất thống chí
大南一統志
Sách phủ nguyên qui
冊府元龜
Đại Việt sử lược
大越史略
Tân đính hiệu bình Việt điện u linh tập
新訂較評越甸幽靈集
Đại Việt sử ký toàn thư
大越史記全書
Thiền uyển tập anh
禪苑集英
Tư trị thông giám
資治通鑑
Việt điện u linh
粵甸幽靈
Việt điện u linh tập lục
粵甸幽靈集録
Việt điện u linh tập toàn biên
越甸幽靈集全編
Việt điện u linh (bản sao lục)
越甸幽靈
Trước Công Nguyên
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1
1. Lý do lựa chọn Đề tài nghiên cứu
1
2. Mục đích nghiên cứu
5
3. Đối tượng và Phạm vi nghiên cứu
5
4. Phương pháp nghiên cứu
13
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của Đề tài nghiên cứu
13
Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
15
VÀ CƠ SỞ TƯ LIỆU
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
15
1.2. Cơ sở tư liệu
23
Chương 2. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA TẦNG LỚP THỦ LĨNH
31
GIAO CHÂU – AN NAM THỜI TÙY ĐƯỜNG QUA NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP CÁC
THỦ LĨNH HỌ ĐỖ
2.1. Nguồn gốc họ Đỗ và quá trình di cư, định cư tại Giao Châu thời Lục triều
32
2.2. Đỗ Anh Hàn và Đỗ Hoài Bích thời Đường
41
2.3. Đỗ Anh Sách thời Đường
43
2.4. Đỗ Tồn Thành và Đỗ Thủ Trừng thời Đường
52
2.5. Tiểu kết Chương 2
57
Chương 3. XU HƯỚNG NỔI DẬY GIÀNH QUYỀN TỰ CHỦ CỦA CÁC THỦ LĨNH GIAO
61
CHÂU – AN NAM THỜI TÙY ĐƯỜNG QUA NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP KHỞI NGHĨA
PHÙNG HƯNG
3.1. Lịch sử nghiên cứu và các vấn đề còn tồn tại
61
3.2. Tư liệu về khởi nghĩa Phùng Hưng: Tính chất và Giá trị sử liệu
62
3.3. Về xuất thân và đất bản bộ của Phùng Hưng
74
3.4. Thời điểm kết thúc của khởi nghĩa Phùng Hưng
86
3.5. Tiểu kết Chương 3
89
Chương 4. XU HƯỚNG NỔI DẬY GIÀNH QUYỀN TỰ CHỦ CỦA CÁC THỦ LĨNH GIAO
96
CHÂU – AN NAM THỜI TÙY ĐƯỜNG QUA NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP KHỞI NGHĨA
MAI THÚC LOAN VÀ DƯƠNG THANH
4.1. Khởi nghĩa Mai Thúc Loan
96
4.2. Khởi nghĩa Dương Thanh
116
4.3. Tiểu kết Chương 4
133
KẾT LUẬN
135
MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn Đề tài nghiên cứu
Trên khu vực có phạm vi tương ứng với vùng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ của lãnh
thổ Việt Nam hiện tại, văn minh lúa nước đã xuất hiện từ rất sớm. Vào thời kỳ văn
hóa Đông Sơn, kỹ thuật luyện kim, cụ thể là nghề đúc đồng đã sớm phát triển, đạt
đến trình độ hoàn thiện cao, trong khi nghề luyện sắt cũng đã bắt đầu đạt được một
số thành tựu. Đây là những tiền đề vật chất quan trọng dẫn đến sự hình thành của một
số nhà nước sơ khai ở khu vực như Văn Lang và Âu Lạc. Kỹ thuật canh tác lúa nước
(“Lạc điền”) và sự ra đời của các nhà nước sơ khai đó có thể được chứng minh qua
một số tư liệu văn bản như Giao Châu ngoại vực ký 交州外域記1 hay Quảng Châu
ký 廣州記2, cũng như những kết quả khai quật khảo cổ học về thời kỳ Đông Sơn. Tuy
nhiên, các nhà nước sơ khai hình thành ở khu vực này đã sớm phải đối mặt với chủ
trương bành trướng của các thế lực phương Bắc. Năm 179 TCN, chính quyền Âu Lạc
do An Dương Vương Thục Phán 蜀泮 đứng đầu đã bị Triệu Đà 趙佗 tiêu diệt, Âu
Lạc chính thức bị sáp nhập vào bản đồ Nam Việt. Như vậy, mặc dù xuất hiện từ khá
sớm, nhưng nhà nước sơ khai của các tộc người Âu Việt và Lạc Việt chưa có đủ điều
kiện và thời gian tích lũy để phát triển thành một nhà nước có mô hình tổ chức hoàn
thiện.
Trong suốt thời Bắc thuộc kéo dài từ năm 179 TCN đến đầu thế kỷ X, tầng lớp
thủ lĩnh địa phương đã tổ chức nhiều cuộc nổi dậy nhằm thoát ly khỏi ách thống trị
phương Bắc. Đa phần các cuộc nổi dậy này đều sớm bị dìm trong biển máu, nhưng
một số đã đạt được mục tiêu giành chính quyền, tiêu biểu là khởi nghĩa Hai Bà Trưng,
Bà Triệu 趙嫗, Lý Bí 李賁, Phùng Hưng 馮興... Đặc biệt, theo ghi chép của nhiều
nguồn tư liệu, kể cả của chính sử Trung Quốc, một số cuộc khởi nghĩa đã tiến tới việc
xây dựng được một nhà nước tự chủ, trong đó người đứng đầu xưng đế hiệu/vương
1
「交州外域記曰、交趾昔未有郡縣之時、土地有雒田、其田從潮水上下、民墾食其田、因名為雒民、設雒王雒
侯主諸郡縣、縣多為雒将、雒将銅印青綬、後蜀王子将兵三萬來討雒王雒侯、服諸雒将」(『水經注』卷 38).
2
「廣州記云、交趾有駱侯、諸縣自名為駱將、銅印青綬即今之令、後蜀王子將兵討駱侯、自稱為安陽王、治封
谿縣、後南越王尉佗攻破安陽王、令二使典主交趾九真二郡、即甌駱也」(『 史記』卷 113).
1
hiệu trong ý thức bình đẳng với chính quyền phương Bắc (như trường hợp Hai Bà
Trưng “tự lập làm vương”3, Nam Việt Đế4/Lý Nam Đế, (Mai) Hắc Đế5 hay Bố Cái
Đại Vương), lập quốc hiệu và niên hiệu riêng (ví dụ quốc hiệu Vạn Xuân và niên hiệu
Thiên Đức thời Lý Nam Đế), thậm chí bước đầu thiết lập được một bộ máy quan lại
để vận hành nhà nước (tiêu biểu như “bách quan” của nhà nước Vạn Xuân)... Tuy
nhiên, dưới thời Bắc thuộc, các chính quyền tự chủ non trẻ đó đã không tồn tại được
lâu dài.
Bước sang thế kỷ X, tình hình chiến loạn, xu hướng phân rã và tái thống nhất
diễn ra tại Trung Quốc đã có những tác động sâu sắc đến cục diện chính trị ở khu vực
Đông Bắc Á và Đông Nam Á. Tận dụng sự suy yếu của các thế lực phương Bắc, năm
905, họ Khúc - một dòng họ “thổ hào” ở đất Hồng Châu (Hải Dương) đã nổi lên thâu
tóm chính quyền ở An Nam. Trong quãng thời gian từ năm 905 đến 923 (hoặc 930),
ba thế hệ của họ Khúc là Khúc Thừa Dụ 曲承裕, Khúc Hạo 曲顥 và Khúc Thừa Mỹ
曲承美 đã lần lượt buộc nhà Hậu Lương phải công nhận chức Tiết độ sứ tự phong và
quyền kiểm soát An Nam. Sau khi họ Khúc bị Nam Hán - một chính quyền cát cứ
đóng đô ở Phiên Ngung (Quảng Đông) trấn áp, một bộ tướng của Khúc Thừa Mỹ,
đồng thời là một hào trưởng ở vùng Ái Châu (Thanh Hóa) là Dương Đình Nghệ 楊
廷藝 đã đánh đuổi Thứ sử Giao Châu do Nam Hán cử sang là Lý Tiến 李進, tiêu diệt
viện binh do Trần Bảo 陳寶 chỉ huy, đặt trụ sở chính quyền tại thành Đại La. Năm
938, nhận được tin Dương Đình Nghệ bị Nha tướng Kiều Công Tiễn 矯公羨 sát hại,
con rể của Dương Đình Nghệ là Ngô Quyền 吳權 đã tiến quân ra Bắc, hạ thành Đại
La, tiêu diệt Kiều Công Tiễn. Cùng năm đó, Ngô Quyền đánh bại thủy quân Nam
Hán do Lưu Hoằng Thao 劉弘操 chỉ huy trên sông Bạch Đằng, dập tắt mưu đồ thôn
tính của chính quyền Nam Hán. Như nhiều nhà sử học đã đánh giá, sự xuất hiện của
chính quyền họ Khúc năm 905 và chiến thắng Bạch Đằng của Ngô Quyền năm 938
3
「於是九真、日南、合浦蠻里皆應之、凡略六十五城、自立為王」(『後漢書』卷 86、南蠻).
「初州人阮賁反、據龍編城、自稱南越帝、置百官、改元天德、國號萬春」(『史略』卷上).
5
「開元初、安南首領梅玄成叛、自稱黑帝、與林邑真臘國通謀、陷安南府」(『舊唐書』 卷 184、楊思勗傳).
4
2
là những cột mốc đánh dấu sự chấm dứt của phân kỳ lịch sử Bắc thuộc, mở đầu cho
quá trình hình thành quốc gia và văn minh Đại Việt trên lãnh thổ Việt Nam.
Trong thế kỷ X, vùng đất Giao Châu – An Nam đã chuyển mình trở thành một
quốc gia tự chủ, nằm ngoài tầm thống trị trực tiếp của các thế lực phương Bắc. Với ý
nghĩa lịch sử quan trọng như vậy, thế kỷ X đã được đặc biệt nhấn mạnh trong hầu hết
các bộ thông sử về Việt Nam, tiêu biểu như Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam Tập 1 [Vượng – Tấn 1960], Lịch sử Việt Nam - Tập 1 [Lê – Vượng – Tấn 1985], The
birth of Vietnam (Sự ra đời của Việt Nam) [Taylor 1983], Lịch sử Việt Nam - Tập 1
[Lê 2012], Lịch sử Việt Nam - Tập 1 [Mền 2013]... Có thể thống kê được một khối
lượng đồ sộ các công trình nghiên cứu về thế kỷ X, với rất nhiều góc độ tiếp cận khác
nhau. Về phương thức sản xuất, kết cấu kinh tế - xã hội, chúng ta có các công trình
mang đậm tính lý luận của Lê Kim Ngân [Ngân 1981, 1984], Lê Văn Lan [Lan 1982],
Trương Hữu Quýnh [Quýnh 1982] ... Về tổ chức chính quyền, kết cấu nhà nước có
các công trình của Nguyễn Danh Phiệt [Phiệt 1976, 1990], Phan Huy Lê [Lê 1983]...
Vấn đề chiến tranh thống nhất nhìn qua công cuộc dẹp loạn của Đinh Bộ Lĩnh 丁部
領, các cuộc kháng chiến chống xâm lược phương Bắc nhìn từ các chiến thắng Bạch
Đằng của Ngô Quyền năm 938 và của Lê Hoàn 黎桓 năm 980-981 đã được phân tích
trong các cuốn sách như Nhà Đinh dẹp loạn và giữ nước của Nguyễn Danh Phiệt
[Phiệt 1990], các bài viết tại Hội thảo Chiến thắng Bạch Đằng [1982], Hội thảo Lê
Hoàn và 1000 năm chiến thắng giặc Tống [1985], Chuyên san Kỷ niệm 700 năm
chiến thắng Bạch Đằng của Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử [1988], các bộ sách Chiến
thắng Bạch Đằng năm 938 và 1288 của nhóm tác giả Phan Huy Lê – Phan Đại Doãn
- Nguyễn Quang Ngọc [Lê – Doãn – Ngọc 1988], Cuộc kháng chiến chống Tống lần
thứ nhất 980-981 của Trần Bá Chí [Chí 1986, 1992],... Không chỉ dừng lại ở các vấn
đề lịch sử vĩ mô, nhiều chi tiết như xuất thân, vai trò của các nhân vật lịch sử tiêu
biểu như ba thế hệ họ Khúc, Ngô Quyền, Đinh Bộ Lĩnh, Lê Hoàn, Dương Thái hậu...
cũng được tầm cứu trong các bài viết của Đỗ Danh Huấn [Huấn 2009a, 2009b, 2010],
Trần Bá Chí [Chí 1981, 2005], Lee Seon Hee [Lee 2000], Trần Trọng Dương [Dương
2010], Hội thảo Bối cảnh định đô Thăng Long và sự nghiệp của Lê Hoàn [2006].
3
Liên quan đến thời kỳ này, cũng không thể không nhắc đến những công trình nghiên
cứu về địa lý học lịch sử, hệ thống hành chính, giao thông thủy bộ của Hoàng Xuân
Hãn [Hãn 1949], Đào Duy Anh [Anh 1964], Hà Mạnh Khoa [Khoa 1997, 2005]... Để
phục vụ công tác nghiên cứu, nhiều tư liệu quý giá cũng được thu thập thông qua các
cuộc điều tra điền dã và khai quật khảo cổ học tại nhiều địa phương. Những tư liệu
đó đã được giới thiệu trong bài viết của Hà Văn Tấn [Tấn 1965], Đỗ Văn Ninh [Ninh
1970a, 1970b], Nguyễn Gia Khang [Khang 1970], Nguyễn Danh Phiệt [Phiệt 1981,
1990],... Trên một cách nhìn vĩ mô và tổng quát, Phan Huy Lê đã đánh giá “thế kỷ X
đánh dấu một chuyển biến lớn lao về nhiều mặt, có ý nghĩa như một bước ngoặt của
lịch sử dân tộc” [Lê 2015: 605].
Nhìn vào tần suất và số lượng các công trình liên quan, có thể hình dung được
sự quan tâm đặc biệt của các nhà sử học dành cho thế kỷ X. Sự quan tâm đó không
chỉ bắt nguồn từ ý nghĩa lịch sử quan trọng của giai đoạn này, mà còn liên quan chặt
chẽ đến bối cảnh ra đời của nền sử học Việt Nam hiện đại. Đó là quãng thời gian đất
nước Việt Nam đang tìm đường thoát khỏi ách thống trị 80 năm của người Pháp, tiếp
sau đó là hai cuộc kháng chiến trường kỳ chống Thực dân Pháp và Đế quốc Mỹ,
thường được biết đến ở nước ngoài với tên gọi “Chiến tranh Đông Dương” và “Chiến
tranh Việt Nam”. Đến cuối thập niên 1970, Việt Nam lại tiếp tục phải đối mặt với hai
cuộc chiến tranh bảo vệ tổ quốc ở biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc. Trước
hiện thực là vận mệnh, sự tồn vong của đất nước và dân tộc Việt Nam bị đặt trước
những thử thách hết sức khắc nghiệt của lịch sử, hơn bất cứ thời điểm nào khác, nhiều
nhà sử học, kể cả của Việt Nam và nước ngoài, hoặc trải nghiệm một cách trực tiếp,
hoặc tiếp xúc một cách gián tiếp với hiện thực đó qua bản tin thời sự, báo chí hay ký
ức của những người xung quanh, đã nhìn thấy nhiều điểm tương đồng giữa Việt Nam
của thời đại mà họ đang sống với thế kỷ X - thế kỷ đánh dấu sự chấm dứt thời kỳ Việt
Nam bị đô hộ bởi ngoại bang – phân kỳ lịch sử Bắc thuộc.
Luận án hoàn toàn không có ý đồ phủ định ý nghĩa lịch sử “bản lề” - “bước
ngoặt” của thế kỷ X. Tuy nhiên, nếu để bị ràng buộc bởi những mốc phân kỳ lịch sử,
vốn do các nhà sử học hiện đại xác lập, giới hạn nghiên cứu của mình từ thế kỷ X trở
4
đi, chúng ta sẽ có xu hướng nhìn nhận các hiện tượng của thế kỷ X như sự nổi lên
của họ Khúc, họ Dương, họ Ngô, hay quá trình xây dựng vương quyền của nhà Đinh,
nhà Tiền Lê như những hiện tượng mang tính đột khởi. Nếu nhận thức lịch sử là một
dòng chảy liên tục, những chuyển biến trong thế kỷ X chắc chắn phải là kết quả của
một quá trình tích lũy lâu dài, đặc biệt trong ba thế kỷ trước đó, tương ứng với thời
Tùy Đường.
Như chúng ta đã biết, sự thành lập của hai đế chế Tùy (581) và Đường (618)
đánh dấu sự chấm dứt của một chu kỳ loạn lạc, đồng thời mở đầu cho một chu kỳ
thống nhất mới trong lịch sử Trung Quốc. Đây cũng là giai đoạn mà chế độ hộ tịch,
hệ thống phú khóa theo đầu người (tô, dung, điệu, tạp dịch) và chế độ luật lệnh, những
trụ cột căn bản của nhà nước trung ương tập quyền kiểu Trung Hoa đã được hoàn
thiện và phát triển đến đỉnh cao. Bên cạnh đó, những hoạt động giao lưu kinh tế - văn
hóa giữa mảnh đất Giao Châu - An Nam với vùng nội địa Trung Quốc cũng trở nên
sôi động hơn, trên cơ sở sự phát triển của hệ thống giao thông thủy bộ. Những yếu tố
đó lẽ ra đã kéo vùng đất Giao Châu - An Nam xích lại gần hơn với vùng trung tâm
đế quốc, đồng thời đẩy mạnh hơn nữa quá trình đồng hóa. Tuy nhiên, trên thực tế,
thời Tùy Đường lại trở thành giai đoạn cuối cùng, đánh dấu sự cáo chung của phân
kỳ lịch sử Bắc thuộc. Tại sao lại như vậy? Một trong những chìa khóa giúp giải quyết
câu hỏi đó là nghiên cứu về tính chất và quá trình hoạt động của tầng lớp thủ lĩnh tại
Giao Châu – An Nam thời Tùy Đường, lực lượng đã dẫn dắt Việt Nam bước ra khỏi
kỷ nguyên Bắc thuộc. Đây là lý do tác giả lựa chọn vấn đề này làm đề tài nghiên cứu
của Luận án.
2. Mục đích nghiên cứu
Khai thác các nguồn tư liệu văn bản, tư liệu khảo cổ học, và đặc biệt là tư liệu
kim thạch văn, Luận án tiến hành nghiên cứu quá trình hình thành, thành phần cũng
như tính chất của tầng lớp thủ lĩnh tại Giao Châu – An Nam thời Tùy Đường thông
qua các trường hợp cụ thể. Trên cơ sở đó, Luận án sẽ phân tích mối quan hệ lợi ích –
nghĩa vụ giữa các thủ lĩnh và chính quyền đô hộ, làm rõ những mâu thuẫn nội tại dẫn
đến xu hướng nổi dậy giành quyền tự chủ của tầng lớp thủ lĩnh, thể hiện qua ba cuộc
5
khởi nghĩa nổ ra dưới thời Đường là khởi nghĩa Mai Thúc Loan, Phùng Hưng và
Dương Thanh.
3. Đối tượng và Phạm vi nghiên cứu
Khi xem xét mối liên hệ giữa thời Tùy Đường và thế kỷ X, có thể tiếp cận từ rất
nhiều góc độ: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Tuy nhiên, do giới hạn số trang của
một luận án tiến sĩ, tác giả sẽ chỉ tập trung vào đối tượng nghiên cứu là tầng lớp thủ
lĩnh tại Giao Châu – An Nam thời Tùy Đường.
Các vấn đề nghiên cứu của Luận án này nằm trong phạm vi thời gian là từ năm
581 đến 907, khoảng thời gian tồn tại của hai đế quốc Tùy Đường6.
Khái niệm “Giao Châu” và “An Nam” được sử dụng trong Luận án chỉ không
gian địa lý tương đương với khu vực Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ thuộc lãnh thổ Việt
Nam hiện tại, một phần duyên hải phía Nam của tỉnh Quảng Tây (từ bán đảo Lôi
Châu trở về phía Nam) và một phần phía Nam của tỉnh Vân Nam (Trung Quốc).
Không gian địa lý nêu trên về mặt hành chính tương ứng với địa bàn thuộc quyền
thống trị cả trực tiếp và ràng buộc (kimi) của Giao Châu Tổng quản phủ thời Tùy và
An Nam Đô hộ phủ thời Đường. Tuy nhiên, tác giả nhấn mạnh rằng các cách gọi
“Giao Châu” hay “Giao Châu Tổng quản phủ”, “An Nam” hay “An Nam Đô hộ phủ”
cũng chỉ mang tính tương đối. Đó là do xuyên suốt thời Tùy Đường, khái niệm “Giao
Châu” và “An Nam”, cũng như các đơn vị và chức danh hành chính đi kèm đã có quá
trình biến thiên hết sức phức tạp. Về quá trình hình thành Giao Châu Tổng quản phủ
và An Nam Đô hộ phủ, trước đây đã có nhiều học giả đề cập đến như Henri Maspéro
[Maspéro 1910], Đào Duy Anh [Anh 1964], Keith Weller Taylor [Taylor 1983], Túc
Mỹ Linh [Túc 1987], Nghệ Xung [Nghệ 2011], Quách Thanh Ba [Quách 2012]. Tuy
nhiên, giữa các nhà nghiên cứu còn tồn tại một số khác biệt về mặt nhận thức, tiêu
biểu như thời điểm thiết lập An Nam Đô hộ phủ. Chính vì vậy, dưới đây, trên cơ sở
bổ sung tư liệu mới, đặc biệt là một nguồn tư liệu đồng đại là văn thư Đôn Hoàng,
6
Do qui định về giới hạn số trang, cũng như hoạt động của ba thế hệ họ Khúc kéo dài đến năm 930, Luận án
không trình bày các vấn đề liên quan đến chính quyền họ Khúc.
6
tác giả sẽ khái lược lại diên cách Giao Châu Tổng quản phủ và An Nam Đô hộ phủ
thời Tùy Đường, từ đó xác lập phạm vi nghiên cứu của Luận án.
Dưới thời Tùy Văn Đế (581-604), ngoại trừ bốn châu Tịnh, Ích, Kinh, Dương
được thiết lập Đại Tổng quản phủ, các châu còn lại đều được nhà Tùy đặt dưới sự
quản lý của cơ quan Tổng quản phủ, đứng đầu là chức Tổng quản. Trong bối cảnh
đó, sau khi chiếm được Giao Châu từ chính quyền Lý Phật Tử 李佛子 năm 602, Tùy
Văn Đế đã cho thiết lập Giao Châu Tổng quản phủ vào năm Nhân Thọ thứ 4 (604)7.
Nhìn vào chức Giao Châu (Hành quân) Tổng quản của tướng Lưu Phương 劉方, có
thể cho rằng Giao Châu Tổng quản phủ thời Tùy là cơ quan thống trị bao trùm cả ba
khu vực Giao Châu, Ái Châu và Đức Châu có từ thời Lương. Tuy nhiên, đến ngày 1
tháng Giêng năm Đại Nghiệp nguyên niên (605), nhân sự kiện Dương Lượng 楊諒
dấy binh làm phản tại Tịnh Châu, nhằm giảm bớt quyền lực quá lớn nằm trong tay
các Đại Tổng quản, Tùy Dạng Đế đã quyết định bãi bỏ chế độ Tổng quản phủ8, chia
quyền lực về cho các Thứ sử. Như vậy, cơ quan quyền lực Giao Châu Tổng quản phủ
bao trùm các châu chỉ tồn tại trong một thời gian rất ngắn là năm Nhân Thọ thứ 4 6049. Tuy nhiên, trên thực tế, nó có thể tồn tại đến giữa năm 605 do cuộc chinh phạt
Lâm Ấp của Lưu Phương. Đến ngày 14 (Nhâm Thìn) tháng 4 năm Đại Nghiệp thứ 3
(607), nhà Tùy đổi châu thành quận, đổi chức Thứ sử thành Thái thú10. Từ năm 607,
quyền lực của Giao Châu Tổng quản (đến 605 thuộc về Lưu Phương) đã chính thức
bị tách ra, chia về cho Thứ sử 3 quận Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam (tiền thân là
Giao Châu, Ái Châu và Đức Châu).
7
「隋文帝以并益荆揚四州置大總管、其餘總管府」(『通典』卷 32、都督).「仁夀四年置總管府、大業三年罷
州復為交趾郡、武徳四年又改為交州總管府、永徽二年改為安南都護府、兼置節度、至徳二年改為鎮南都護府、
大曆三年罷節度置經略使、仍改鎮南為安南都護府」(『元和』卷 38,安南都護府).
8
「春正月壬辰朔(中略) 廢諸州總管府」(『隋書』卷 3、大業元年〈605〉正月壬辰朔條).
9
Bản thân tên gọi “Giao Châu Tổng quản phủ” vốn bắt nguồn từ thời Bắc Chu. Tuy nhiên, việc Quách Thanh Ba cho rằng
sau khi Khâu Hòa hàng Tiêu Tiển, “Giao Châu Tổng quản phủ” đã được Tiêu Tiển khôi phục theo chế độ Bắc Chu [Quách
2012: 46] là không chính xác. Duy nhất có Cựu Đường thư (q.56) chép khi hàng Lý Tĩnh, chức của Khâu Hòa đã là “Giao
Châu Tổng quản”. Nhưng đây là chép nhầm vì các tư liệu còn lại đều chỉ chép Khâu Hòa là “Giao Chỉ Thái thú”. Nói tóm
lại, việc nhiều nghiên cứu thường cho rằng Khâu Hòa là “Giao Châu Tổng quản” của nhà Tùy là không chính xác. Chức
Giao Châu Tổng quản của Khâu Hòa chỉ có được sau khi hàng phục nhà Đường.
10
「壬辰、改州為郡」(『隋書』卷 3、煬帝、大業 3 年〈607〉4 月壬辰條).
7
Bước sang thời Đường, theo Nguyên Hòa (q.38), năm Võ Đức thứ 4 (621),
Đường Cao Tổ cho khôi phục chế độ Tổng quản phủ11. Tuy nhiên, cần nhận thức
rằng vào thời điểm này, Giao Châu Tổng quản phủ của nhà Đường chỉ tồn tại trên
giấy tờ, vì 3 quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam vẫn nằm trong tay 3 viên Thái thú
của nhà Tùy là Khâu Hòa 丘和, Lê Ngọc 黎玉 và Lý Tuấn 李晙. Chỉ đến khi biết
Tiêu Tiển 蕭銑 bị quân Đường vây khốn ở Giang Lăng, Giao Chỉ Thái thú Khâu Hòa
mới hàng Đường, và được phong làm “Giao Châu Tổng quản” vào ngày 22 (Giáp
Thìn) tháng 2 năm Võ Đức thứ 5 (622)12. Đến tháng 8 cùng năm (622), Giao Châu
cùng với 4 châu khác là Lạc, Kinh, Tịnh, U được nâng cấp thành “Đại Tổng quản
phủ”, thống lĩnh tổng cộng 10 châu: Giao, Phong, Ái, Tiên, Diên, Tống, Từ, Hiểm,
Đạo, Long13. Với vùng cực Nam, sau khi tiếp nhận sự đầu hàng của Nhật Nam Thái
thú Lý Tuấn ngày 27 (Mậu Dần) tháng 4 năm Võ Đức thứ 5 (622)14, nhà Đường cho
thiết lập Nam Đức Châu 南德州 Tổng quản phủ (tiền thân của Hoan Châu Đô đốc
phủ), phong Lý Tuấn làm Nam Đức Châu Tổng quản, quản lý 8 châu: Đức, Minh,
Trí, Hoan, Lâm, Nguyên, Cảnh, Hải15. Nói cách khác, vào thời điểm năm 622, trên
khu vực tương đương với vùng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ Việt Nam ngày nay tồn tại
hai Tổng quản phủ ngang hàng là Giao Châu và Nam Đức Châu, tương ứng với địa
bàn hai thế lực họ Khâu và họ Lý. Đến ngày 12 (hoặc ngày 17 – Đinh Tị) tháng 2
năm Võ Đức thứ 7 (624), Đường Cao Tổ lại đổi Tổng quản phủ thành Đô đốc phủ.
11
Nguyên Hòa (q.38) (đã dẫn). Các nghiên cứu khái quát về An Nam Đô hộ phủ của Đào Duy Anh [Anh 1964], K. Taylor
[1983], Túc Mỹ Linh [1987] đều bỏ sót sự kiện năm Võ Đức thứ 4. Quách Thanh Ba cho rằng vì Giao Châu vào năm Võ
Đức thứ 4 (621) được đổi thành Tống Châu, nên chính xác phải là “Tống Châu Tổng quản phủ” [Quách 2012: 46].
12
「甲辰、以隋交趾太守丘和為交州總管」(『通鑑』卷 190、武德 5 年〈622〉2 月甲辰條).
13
Quyển 41, phần Địa lý chí của Cựu Đường thư chỉ chép năm Võ Đức thứ 5 (622) đổi thành “Tổng quản phủ”, nhưng
quyển 1 phần Bản kỷ chép rõ hơn là đây là việc đặt “Đại Tổng quản phủ”. Có thể kiểm chứng thông tin “Đại Tổng quản
phủ” qua ghi chép của Thông điển (q.32).「安南都督府、隋交趾郡、武德五年、改為交州總管府、管交、峯、愛、
仙、鳶、宋、慈、險、道、龍十州(中略) 調露元年八月,改交州都督府為安南都護府(中略)至德二年九月,
改為鎮南都護府,後為安南府」(『舊唐書』卷 41、安南都督府).「八月辛亥、以洺、荊、并、幽、交五州為
大總管府」(『舊唐書』卷 1、武德 5 年〈622〉8 月辛亥條).「五年以洺荆并幽交五州為大總管府、七年改大
總管府為大都督府、總管府為都督府」(『通典』卷 32、都督). Như K. Taylor cũng đã chỉ ra, H. Maspéro nhầm
sự kiện này là đổi tên thành “Giao Châu Đô hộ phủ” 交州都護府 [Maspéro 1910: 552].
14
「戊寅、廣州賊帥鄧文進、隋合浦太守甯宣、日南太守李晙、並來降」(『通鑑』卷 190、武徳 5 年〈622〉4
月戊寅條).「五月隋日南太守李晙遣使請降、以晙為南德州總管」(『冊府』卷 164).
15
「武德五年、置南德州總管府、領德、明、智、驩、林、源、景、海八州、 南德州領六縣、八年、改為德州」
(『舊唐書』卷 41、安南府、驩州).「驩州日南郡、下都督府、本南德州、武德八年曰德州、貞觀元年又更名」
(『新唐書』卷 43 上、驩州日南郡).
8
Giao Châu Đại Tổng quản phủ theo đó cũng được chuyển thành Giao Châu Đại Đô
đốc phủ16. Nam Đức Châu Tổng quản phủ đổi thành Nam Đức Châu Đô đốc phủ, đến
năm Võ Đức thứ 8 (625) đổi thành Đức Châu Đô đốc phủ. Năm Trinh Quán nguyên
niên (627), nhà Đường đổi Đức Châu thành Hoan Châu, Hoan Châu cũ thành Diễn
Châu. Một năm sau đó (628), nhà Đường thiết lập Hoan Châu Đô đốc phủ cai quản
các châu: Hoan, Diễn, Minh, Trí, Lâm, Nguyên, Cảnh, Hải17.
Như vậy, khu vực Giao Châu và Đức Châu (Hoan Châu) ban đầu vẫn được nhà
Đường đặt trong hệ thống Đô đốc phủ, tương tự như nhiều châu khác thuộc vùng nội
địa Trung Quốc. Tuy nhiên, đến nửa cuối thế kỷ VII, Giao Châu và Đức Châu đã
được tách ra khỏi hệ thống Đô đốc phủ, chuyển sang hệ thống Đô hộ phủ - đơn vị
hành chính được nhà Đường thiết lập để cai quản các vùng “biên phương”18. Tiếp
theo Thiền Vu 單于 Đô hộ phủ, An Bắc 安北 Đô hộ phủ được thiết lập ở khu vực
Nội - Ngoại Mông, Bắc Đình 北庭 Đô hộ phủ ở vùng bồn địa Dzungaria (Tân Cương),
An Tây 安西 Đô hộ phủ ở vùng lòng chảo Tarim, An Đông 安東 Đô hộ phủ ở phía
Bắc bán đảo Triều Tiên, nhà Đường đã thiết lập An Nam 安南 Đô hộ phủ thay thế
cho Giao Châu Đô đốc phủ và Hoan Châu Đô đốc phủ.
Về thời điểm thiết lập An Nam Đô hộ phủ, trước đây còn tồn tại nhiều giả thuyết
khác nhau. Về mặt tư liệu, Thông điển (q.32) cho là vào niên hiệu Vĩnh Huy (650655), Nguyên Hòa (q.38) chép cụ thể vào năm Vĩnh Huy thứ 2 (651). Cựu Đường thư
(q.5) phần Bản kỷ chép sự kiện này vào ngày Tân Mão (tức ngày 23) tháng 8 năm
Vĩnh Long thứ 2 (681). Cũng Cựu Đường thư (q.43 thượng) phần Địa lý chí lại cho
rằng An Nam Đô hộ phủ được thiết lập vào tháng 8 năm Điều Lộ thứ 2 (679). Hội
16
「丁巳(中略)改大總管府為大都督府」(『舊唐書』卷 1、 武德 7 年〈624〉2 月條).「至武德七年,改總
管府為都督府」(『舊唐書』卷 38).「 武徳七年二月十二日、改大總管府為大都督府、管十州已上為上都督府、
不滿十州只為都督府」(『會要』卷 68、都督府).
17
「貞觀初、改為驩州、以舊驩州為演州、二年、置驩州都督府、領驩、演、明、智、林、源、景、海八州、十
二年、廢明、源、海三州、天寶元年、改為日南郡、乾元元年、復為驩州也」(『舊唐書』卷 41、安南府、驩
州).
18
K. Taylor cho rằng đơn vị “Đô đốc phủ” được thiết kế để sử dụng cho các khu vực nằm bên ngoài trung tâm (heartland)
của vương triều [Taylor 1983: 171]. Không rõ K. Taylor định nghĩa phạm vi “heartland” đến đâu, nhưng có một thực tế là
sau khi thành lập An Nam Đô hộ phủ, các Đô đốc phủ như Quảng Châu Đô đốc phủ vẫn được giữ nguyên. Điều đó cho
thấy trong mắt của chính quyền nhà Đường, Giao Châu có vị trí khác so với các châu như Quảng Châu.
9
yếu (q.73) chép cụ thể vào ngày 7 tháng 8 năm Điều Lộ thứ 2 (679)19. Hầu hết các
học giả từ trước đến nay đều mặc nhiên theo thuyết năm 679. Riêng Quách Thanh Ba
cho rằng năm 679 là thời điểm “thượng tấu”, năm 681 là thời điểm “phê chuẩn” việc
đổi tên từ Giao Châu Đô đốc phủ thành An Nam Đô hộ phủ [Quách 2012: 47].
Tuy nhiên, có thể dựa vào các nguồn tư liệu đồng đại để xác định chính xác thời
điểm thiết lập An Nam Đô hộ phủ. Trước tiên, về thời điểm năm Vĩnh Huy thứ 2
(651), có thể tham khảo hai văn thư Đôn Hoàng là Nghi Phượng tam niên độ chi tấu
sao và Nghi Phượng tứ niên Kim bộ chỉ phù. Trong hai văn thư có niên đại vào năm
Nghi Phượng thứ 3–4 (678-679)20 này, chúng ta vẫn thấy các tên gọi “Giao Quảng
Đô đốc phủ” 交廣都督府 (mảnh S’-1), “Giao Châu Đô đốc phủ” 交州都督府 (mảnh
H’-1) và “Giao phủ” 交府 (mảnh H’-2). Nhờ đó, có thể khẳng định các ghi chép về
việc bỏ Giao Châu Đô đốc phủ, thành lập An Nam Đô hộ phủ vào năm 651 là không
chính xác.
Về thời điểm năm Vĩnh Long thứ 2 (681), trước đây Hoạn Vinh Khanh từng
cho rằng Cựu Đường thư đã chép nhầm sự kiện thiết lập An Nam Đô hộ phủ từ ngày
“Ất Mão” (tức ngày 7) tháng 8 năm Điều Lộ thứ 2 sang ngày “Tân Mão” (tức ngày
23) tháng 8 năm Vĩnh Long thứ 2 (651) [Hoạn 1985: 29]. Trong khi đó, Quách Thanh
Ba không phủ định thời điểm năm 681, và cho rằng đây là thời điểm “phê chuẩn”
việc đổi tên Giao Châu Đô đốc phủ thành An Nam Đô hộ phủ [Quách 2012: 47]. Tuy
nhiên, cả hai giả thuyết trên hoàn toàn chỉ là sự phỏng đoán và không thực sự thuyết
phục. Ở đây, tác giả Luận án muốn chú ý đến hai chi tiết như sau. Trước hết, theo mộ
chí của Lý Sảng có niên đại vào niên hiệu Tổng Chương (668-670), vào khoảng niên
hiệu Hiển Khánh (656-661), Lý Sảng được phong làm “Sứ trì tiết thủ Đô đốc Giao,
Phong, Ái tam châu, Hoan Châu Đô đốc phủ đẳng chư quân sự, Giao Châu Thứ sử”21.
19
「辛卯、改交州為安南都護府」(『舊唐書』卷 5、永隆 2 年〈681〉8 月辛卯條).「安南中都護府、本交趾
郡、武德五年曰交州、治交趾、調露元年曰安南都護府、至德二載曰鎮南都護府、大曆三年復為安南」(『新
唐書』卷 43 上、 安南中都護府).「調露元年八月七日改交州都督府為安南都護府 」(『會要』卷 73).
20
Về hai tư liệu này, xin tham khảo phần “Cơ sở tư liệu” trong Chương 1.
21
「顯慶之初(中略)授中大夫、使持節守都督交、峯、愛三州、驩州都督府等諸軍事、交州刺史」(『唐代墓
誌彙編』總章 020、唐故銀青光祿大夫守司刑太常伯李公墓誌銘).
10
Điều đó có nghĩa là đến năm 656, vẫn tồn tại song song hai đơn vị hành chính là Giao
Châu Đô đốc phủ (đứng đầu là Giao Châu Đô đốc) và Giao Châu (châu Giao, đứng
đầu là Giao Châu Thứ sử), mà Lý Sảng là người kiêm nhiệm. Bên cạnh đó, nếu tham
khảo một tư liệu đồng đại là Thiên Bảo sơ niên địa chí tàn quyển22, chúng ta thấy vào
thời điểm năm 742, đơn vị châu Giao đã không còn tồn tại, thay vào đó chỉ còn “An
Nam phủ”. Đọc kỹ lại ghi chép về thời điểm 681, chúng ta thấy Cựu Đường thư (tư
liệu đã dẫn) chép rằng: “ngày Tân Mão, đổi Giao Châu thành An Nam Đô hộ phủ”.
Như vậy, Cựu Đường thư trên thực tế không chép về việc đổi tên “Giao Châu Đô đốc
phủ” thành An Nam Đô hộ phủ như nhiều học giả đã lầm tưởng, mà chỉ chép về việc
đổi tên đơn vị hành chính “Giao Châu” (tức châu Giao) thành An Nam Đô hộ phủ.
Nói tóm lại, thời điểm nhà Đường thiết lập An Nam Đô hộ phủ là năm 679,
chính xác là ngày 7 tháng 8 năm Điều Lộ nguyên niên (679) thời Đường Cao Tông
theo ghi chép của Hội yếu. Đến ngày Tân Mão (23) tháng 8 năm Vĩnh Hưng thứ 2
(681), nhà Đường đã chấm dứt tình trạng tồn tại song song châu Giao và An Nam Đô
hộ phủ, bằng việc bãi bỏ Giao Châu cùng chức Giao Châu Thứ sử, chỉ giữ lại một
đơn vị hành chính duy nhất là An Nam Đô hộ phủ (đứng đầu là An Nam Đô hộ).
Trước đó, quyền lực của Hoan Châu Đô đốc phủ cũng dần dần bị hấp thu vào
Giao Châu Đô đốc phủ. Trước đây, Nghệ Xung từng đoán rằng Hoan Châu Đô đốc
phủ đã bị bãi bỏ và nhập vào Giao Châu Đô đốc phủ từ năm Trinh Quán thứ 16 (642)
[Nghệ 2011: 3]23. Tuy nhiên, mộ chí Lý Sảng (tư liệu đã dẫn) viết rằng vào khoảng
niên hiệu Hiển Khánh (656-661), Lý Sảng vừa làm Giao Châu Đô đốc, vừa làm
“Hoan Châu Đô đốc phủ đẳng chư quân sự”. Điều đó có nghĩa là đến khoảng những
năm 650, Hoan Châu Đô đốc phủ vẫn còn tồn tại, nhưng nhà Đường không còn bổ
nhiệm riêng Hoan Châu Đô đốc, mà giao cho Giao Châu Đô đốc kiêm nhiệm. Việc
suy giảm thế lực của Hoan Châu Đô đốc phủ bắt nguồn từ việc nhà Đường tách nhỏ
Hoan Châu thành Hoan Châu và Diễn Châu, kết quả là đến năm Trinh Quán thứ 16
22
Về tư liệu này, xin tham khảo phần “Cơ sở tư liệu” trong Chương 1.
Nghệ Xung dựa vào việc năm Trinh Quán thứ 12 (638), nhà Đường bỏ 3 châu: Minh, Nguyên, Hải, năm Trinh Quán thứ
16 (642) bỏ 2 châu: Trí, Diễn; Hoan Châu Đô đốc phủ như vậy chỉ còn 3 châu: Hoan, Lâm, Cảnh và do vậy bị bãi bỏ [Nghệ
2011: 3].「十二年、廢明、源、海三州(中略)十六年、廢演州」(『舊唐書』卷 41、安南府、驩州).
23
11
(642), Hoan Châu chỉ còn cai quản 3 châu: Hoan, Lâm, Cảnh. Có lẽ Hoan Châu Đô
đốc phủ đã bị xóa bỏ vào năm 679, cùng thời điểm với việc thiết lập An Nam Đô hộ
phủ24. Sau này, cùng với sự bùng nổ của khởi nghĩa Phùng Hưng, ngày 20 tháng 4
năm Trinh Nguyên thứ 7 (791), nhà Đường phải tái lập Hoan Châu Đô đốc phủ, đồng
thời lập thêm Phong Châu Đô đốc phủ để cai quản các châu kimi ở vùng biên giới
với Nam Chiếu25.
Song song với An Nam Đô hộ phủ, từ năm Khai Nguyên thứ 21 (733), An Nam
và các châu Quảng, Quế, Dung, U còn được đặt dưới đơn vị “Lĩnh Nam ngũ phủ”
( “Ngũ quản”). Tại mỗi phủ, nhà Đường đặt ra một tổ chức quân sự gọi là “Kinh lược
quân”, nằm dưới sự quản lý của “Kinh lược sứ”26. Theo “Phương trấn biểu” của Tân
Đường thư (q.69), từ năm Thiên Bảo thứ 10 (751), nhà Đường còn lập thêm “An Nam
quản nội Kinh lược sứ”, đến năm Kiền Nguyên nguyên niên (758) đổi thành “An
Nam Tiết độ sứ”27.
Năm Thiên Bảo nguyên niên (742), nhà Đường đổi “châu” thành “quận”. Tuy
nhiên, khác với thời Tùy Dạng Đế khi đổi châu thành quận đã xóa bỏ Tổng quản phủ,
nhà Đường vẫn giữ lại “An Nam phủ”. Có thể thấy rõ điều này trong Thiên Bảo sơ
niên địa chí tàn quyển (742), “An Nam phủ” vẫn tồn tại cùng với các quận.
Vào tháng 9 năm Chí Đức thứ 2 (757), An Nam Đô hộ phủ được đổi tên thành
Trấn Nam 鎮南 Đô hộ phủ, do nhà Đường kị chữ “An” sau Loạn An Lộc Sơn28. Đến
năm Vĩnh Thái thứ 2 (766) hoặc Đại Lịch thứ 3 (768), Trấn Nam Đô hộ phủ lại được
đổi về tên cũ là An Nam Đô hộ phủ29. Tháng 4 năm Hàm Thông thứ 4 (863), sau khi
24
Hiện nay, chúng ta chưa rõ thời điểm nhà Đường bãi bỏ Lâm Châu và Cảnh Châu.
「新升都督府峯州驩州、並貞元七年四月二十日升」(『會要』卷 71、安南都護府).
26
「嶺南五府經略使、綏靜夷獠、統經略、清海二軍、桂管、容管、安南、邕管四經略使(中略)安南經略使,
治安南都護府,即交州,管兵四千二百人」(『舊唐書』卷 38 、嶺南五府經略使).
27
「天寶十載、置安南管內經略使、領交、陸、峰、愛、驩、長、福祿、芝、武峨、演、武安十一州、治交州」、
「乾元元年、升安南管內經略使為節度使」(『新唐書』卷 69、方鎮表).
28
Địa lý chí của Cựu Đường thư (q.41), Tân Đường thư (q.43 thượng), Nguyên Hòa (q.38) đều chép sự kiện này vào năm
Chí Đức thứ 2 (757). Riêng phần “Phương trấn biểu” của Tân Đường thư (q.69) chép vào năm Quảng Đức thứ 2 (764).
Nghệ Xung theo thuyết 764 [Nghệ 2011: 11]. Tác giả Luận án cho thuyết năm 757 là chính xác, vì ngoài các tư liệu trên,
Cựu Đường thư (q.199 thượng) có chép thêm việc Triều Hành được phong làm “Trấn Nam Đô hộ” vào niên hiệu Thượng
Nguyên (760-761).「改安南節度使為鎮南大都護、都防禦觀察經略使」(『新唐書』卷 69、方鎮表).「上元中、
擢衡為左散騎常侍、鎮南都護」(『舊唐書』 卷 199 上、日本國).
29
Về thời điểm khôi phục tên gọi An Nam Đô hộ phủ, có nhiều ghi chép khác nhau. Cựu Đường thư (q.11) chép vào ngày
6 (Nhâm Thìn) tháng 2 năm Vĩnh Thái thứ 2 (766). Tân Đường thư (q.69) (Phương trấn biểu) chép vào năm Đại Lịch
25
12
An Nam Đô hộ phủ bị Nam Chiếu chiếm giữ, nhà Đường bãi bỏ An Nam Đô hộ phủ,
thành lập Hành Giao Châu 行交州 tại Hải Môn Trấn30 (khu vực phía Nam huyện Bác
Bạch, Quảng Tây [Dương 1983]). Đứng đầu Hành Giao Châu là Hành Giao Châu
Thứ sử. Đến tháng 7 cùng năm, An Nam Đô hộ phủ lại được khôi phục và sau đó tồn
tại đến khi nhà Đường diệt vong31. Ngoài ra, từ năm Hàm Thông thứ 7 (866), chức
trưởng quan An Nam Đô hộ đã được thăng làm “Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ”32 (Bảng
1).
Tóm lại, có thể thấy trong khoảng 300 năm từ đầu thế kỷ VII đến đầu thế kỷ X,
đơn vị hành chính của chính quyền đô hộ đã có quá trình biến thiên hết sức phức tạp.
Có những thời điểm như vào cuối thời Tùy, thậm chí không tồn tại tên gọi Giao Châu
(chỉ có quận Giao Chỉ), cũng không tồn tại một cơ quan như Tổng quản phủ bao trùm
các châu. Có thời điểm tồn tại song song Giao Châu Đô đốc phủ và Hoan Châu Đô
đốc phủ. Tương ứng với sự biến thiên của đơn vị hành chính, vị trí trưởng quan cũng
không cố định ở chức Giao Châu Tổng quản hay An Nam Đô hộ, có thời điểm là Trấn
Nam Đô hộ. Từ năm 733, về nguyên tắc tồn tại hai chức vụ khác nhau là An Nam Đô
hộ (trưởng quan của phủ Đô hộ) và An Nam Kinh lược sứ (người đứng đầu tổ chức
quân sự Kinh lược quân) (dù có thể kiêm nhiệm). Đây là những điểm cần phải lưu ý
đến khi khảo cứu từng sự kiện lịch sử cụ thể.
Do bối cảnh phức tạp như vậy, khái niệm “Giao Châu” và “An Nam” trong tiêu
đề Luận án chỉ không gian địa lý tương đương với địa bàn quản hạt của Giao Châu
Tổng quản phủ thời Tùy và An Nam Đô hộ phủ thời Đường. Trong quá trình triển
khai các luận điểm cụ thể, Luận án cũng sẽ sử dụng tên gọi “Giao Châu” cho đơn vị
hành chính cấp châu dưới thời Tùy Đường.
4. Phương pháp nghiên cứu
nguyên niên (765). Tân Đường thư (q.43 thượng), Nguyên Hòa (q.38) (tư liệu đã dẫn), Sử lược (q.thượng), Toàn thư (q.5)
chép vào năm Đại Lịch thứ 3 (768) (tư liệu đã dẫn). Đào Duy Anh, Quách Thanh Ba, Nghệ Xung theo thuyết năm 766
[Anh 1964: 72] [Nghệ 2011: 11] [Quách 2012: 48]. Túc Mỹ Linh theo thuyết 768 [Túc 1987: 130].「壬辰、鎮南都護依
舊為安南都護府」(『舊唐書』卷 11、永泰 2 年〈766〉2 月壬辰條).「三年復為安南都護府」(『史略』卷
上).「戊申唐大曆 3 年、唐復交州為安南都護府」(『全書』外紀卷 5、戊申唐大曆 3 年〈768〉條).
30
「六月廢安南都護府、置行交州於海門鎮、以右監門將軍宋戎為行交州刺史、以康承訓兼領安南及諸軍行營」
(『通鑑』卷 250、咸通 4 年〈863〉6 月條).
31
「秋七月辛卯朔、日有食之、復置安南都護府於行交州」(『通鑑』卷 250、咸通 4 年〈763〉6 年條).
32
「升安南都護為靜海軍節度使」(『新唐書』卷 69、方鎮表).
13
Luận án không nghiên cứu về toàn bộ lịch sử Giao Châu – An Nam thời Tùy
Đường, mà chỉ tập trung vào tầng lớp thủ lĩnh địa phương, thông qua nghiên cứu các
trường hợp cụ thể (case study).
Để làm rõ quá trình di cư, định cư và phát triển của các thủ lĩnh họ Đỗ, trong
Chương 2, tác giả sẽ trình bày các sự kiện theo nguyên tắc lịch đại (diachronically).
Trong khi đó, về từng cuộc khởi nghĩa riêng lẻ, tác giả sẽ khảo chứng đồng bộ
(synchronically) theo từng vấn đề, sau đó mới tổng hợp lại nhận thức mới về từng
cuộc khởi nghĩa theo nguyên tắc lịch đại.
Luận án sẽ khai thác một cách có hệ thống tất cả các nguồn tư liệu, bao gồm cả
tư liệu văn bản, tư liệu kim thạch văn, tư liệu khảo cổ học và tư liệu dân gian. Các tư
liệu được sử dụng trong Luận án đều được xử lý bằng phương pháp căn bản của
nghiên cứu lịch sử là phê phán sử liệu (source criticism), theo cả hai nguyên tắc phê
phán bên ngoài (external criticism) với 6 câu hỏi về niên đại – date, địa điểm –
localization, tác giả – authorship, phân tích – analysis, tính nhất quán – integrity, tính
xác thực – credibility) và phê phán bên trong (internal criticism) về độ tin cậy
(reliability) của tư liệu dã được xác thực, đã được lý thuyết hóa bởi Gilbert J.
Garraghan [Garraghan 1946], Louis Gottschalk [Gottschalk 1950] và Robert Jones
Shafer [Shafer 1969]. Các cách thức lập giả thuyết, suy luận mang tính thống kê
(statistical inference, ví dụ về tên tự và tên hiệu), loại suy (analogy) trong Luận án
đều tuân thủ theo các nguyên tắc về phương pháp luận sử học do C. Behan McCullagh
lý thuyết hóa [McCullagh 1984]. Các dữ liệu thống kê, bảng biểu được thể hiện trong
phần Phụ lục.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của Đề tài nghiên cứu
Các kết quả nghiên cứu của Luận án sẽ góp phần làm rõ hơn một giai đoạn lịch
sử là thời đô hộ Tùy Đường, đồng thời có thể được sử dụng để đính chính một số
điểm chưa chính xác trong sách giáo khoa các cấp học (bao gồm cả giáo trình của
một số trường đại học). Mặt khác, trên phương diện tổng quát, qua vai trò của các thủ
lĩnh địa phương, Luận án cung cấp một tiền đề quan trọng góp phần lý giải sự phát
triển và trưởng thành cũng như sự phân hóa của một tầng lớp xã hội giữ vai trò dẫn
14