Tích hợp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 4 trong dạy học môn tiếng việt

  • doc
  • 111 trang
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

NGUYỄN THỊ NGỌC MINH

TÍCH HỢP GIÁO DỤC KĨ NĂNG SỐNG
CHO HỌC SINH LỚP 4 TRONG
DẠY HỌCMÔN TIẾNG VIỆT
Chuyên ngành: Giáo Dục Học (Bậc Tiểu Học)
Mã số: 60.14.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
Người hướng dẫn khoa học: PGS TS NGUYỄN THỊ MỸ TRINH

NGHỆ AN, 2012

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
1.

Lý do chọn đề tài..................................................................................2

2.

Mục đích nghiên cứu............................................................................2

3.

Khách thể, đối tượng nghiên cứu.........................................................3

4.

Giả thuyết khoa học..............................................................................3

5.

Nhiệm vụ nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu......................................3

6.

Phạm vi nghiên cứu..............................................................................3

7.

Phương pháp nghiên cứu......................................................................4

8.

Đóng góp của luận văn.........................................................................4

9.

Cấu trúc của luận văn...........................................................................4

NỘI DUNG.........................................................................................................
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI...................................................5
1.1.

Lịch sử nghiên cứu...............................................................................5

1.2.

Các khái niệm cơ bản...........................................................................8

1.3.

Một số đặc điểm tâm sinh lí của HS...................................................12

1.4.

Một số vấn đề lý luận cơ bản về tích hợp GDKNS cho HS...............15

1.5. Một số vấn đề lý luận cơ bản về tích hợp GDKNS cho HS trong dạy
học môn Tiếng Việt lớp 4:..................................................................20
* Kết luận chương 1........................................................................................37
Chương 2: THỰC TRẠNG TÍCH HỢP GIÁO DỤC KĨ NĂNG
SỐNG TRONG DẠY HỌC MÔN TIẾNG VIỆT LỚP 4......38
........................................................................................................
........................................................................................................
........................................................................................................
2.1.

Khái quát về quá trình nghiên cứu thực trạng....................................38

2.2.

Kết quả nghiên cứu thực trạng...........................................................39

2.3.

Thực trạng kết quả tích hợp GDKNS và công tác kiểm tra, đánh

giá kết quả tích hợp GDKNS trong DH phân môn Tập đọc lớp 4.....57
* Kết luận chương 2........................................................................................61
Chương 3. MỘT SỐ BIỆN PHÁP TÍCH HỢP GIÁO DỤC KĨ NĂNG
SỐNG CHO HỌC SINH LỚP 4 TRONG DẠY HỌC
MÔN TIẾNG VIỆT .................................................................63
3.1.

Nguyên tắc xây dựng giải pháp..........................................................63

3.2.

Các biện pháp tích hợp GDKNS cho HS trong DH môn Tiếng Việt
lớp 4....................................................................................................64

3.3.

Thăm dò tính cần thiết và khả thi của các biện pháp được đề xuất
............................................................................................................84

* Kết luận chương 3........................................................................................87
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ.......................................................................88
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

KÝ HIỆU VIẾT TẮT
BGH

Ban giám hiệu

GD & ĐT

Giáo dục và Đào tạo

CBQL

Cán bộ quản lí

CMHS

Cha mẹ học sinh

DH

Dạy học

GDKNS

Giáo dục kĩ năng sống

GV

Giáo viên

GVCN

Giáo viên chủ nhiệm

HS

Học sinh

KNS

Kĩ năng sống

PH

Phụ huynh

PHSH

Phụ huynh học sinh

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:
Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Quốc hội
khóa X, kì họp thứ 10 về phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự

giác, chủ động, sáng tạo của học sinh (HS); phù hợp với đặc điểm của từng lớp
học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm;
rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem
lại niềm vui, hứng thú học tập cho HS. Nội dung giáo dục phổ thông phải bảo
đảm tính phổ thông, cơ bản, toàn diện, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.
Chỉ thị số 40/2008/CT-BGDĐT ngày 22/7/2008 và Kế hoạch số 307/KHBGDĐT ngày 22/7/2008 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD & ĐT)
trong đó chú trọng các hoạt động về giáo dục kĩ năng sống (GDKNS) cho HS
thông qua các môn học, về hoạt động giáo dục đạo đức và xây dựng quy tắc ứng
xử văn hoá trong nhà trường. Đứng trước cảnh báo một lớp trẻ thiếu kĩ năng
sống, thiếu kiến thức tối thiểu để các em tự lập và tự tin trong cuộc sống…Bộ
GD & ĐT đặt ra yêu cầu GDKNS cho HS phải bảo đảm các yếu tố: giúp HS ý
thức được giá trị của bản thân trong mối quan hệ xã hội; giúp HS hiểu biết về
thể chất, tinh thần của bản thân mình; có hành vi, thói quen ứng xử có văn hoá,
hiểu biết và chấp hành pháp luật...
GDKNS nhằm giúp các em có thêm kiến thức về hành vi, thái độ, thói quen
lành mạnh, phát triển cho các em khả năng làm chủ bản thân, khả năng ứng xử
phù hợp với những người khác và với xã hội, khả năng ứng phó tích cực phù
hợp trước các tình huống của cuộc sống. Vì các em chính là mầm non của đất
nước, là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển xã hội.
Từ nhiều năm nay, các nước trên thế giới đưa môn GDKNS vào chương
trình học ở bậc Tiểu học. Tại Việt Nam. Những năm gần đây cũng đã xuất hiện
loại hình GDKNS vào chương trình, song chủ yếu ở các thành phố lớn như Hà
Nội, Thành phố Hồ Chí Minh… và tập trung chủ yếu vào môn Đạo đức và hoạt
động ngoài giờ lên lớp mà chưa chú trọng tích hợp GDKNS trong các môn học
và hoạt động khác. Tiếng Việt là môn học quan trọng ở trường Tiểu học, chứa
nhiều tiềm năng để tích hợp GDKNS cho HS. Qua từng nội dung bài học có thể

phát triển rất nhiều kĩ năng cho HS như: vấn đáp, giải quyết vấn đề, tư duy sáng
tạo, trình bày suy nghĩ, thể hiện xúc cảm …
Vì các lí do trên chúng tôi chọn nghiên cứu đề tài: “Tích hợp giáo dục kĩ
năng sống cho học sinh lớp 4 trong dạy học môn Tiếng Việt.”
2. Mục đích nghiên cứu:
Đề xuất các biện pháp tích hợp nội dung GDKNS trong môn Tiếng Việt lớp
4, từ đó góp phần nâng cao chất lượng GDKNS cho HS Tiểu học.
3. Khách thể, đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
3.1. Khách thể nghiên cứu:
Quá trình GDKNS cho HS lớp 4 thông qua dạy học (DH) môn Tiếng Việt.
3.2. Đối tượng nghiên cứu:
Biện pháp tích hợp nội dung GDKNS trong DH môn Tiếng Việt cho HS lớp
4.
3.3. Phạm vi nghiên cứu:
Chúng tôi tiến hành khảo sát thực trạng và tổ chức thực nghiệm để kiểm
chứng tính hiệu quả của các biện pháp tích hợp nội dung GDKNS ở Trường Tiểu
học Tân Sơn Nhì, Trường Tiểu học Lê Văn Tám, Trường Tiểu học Đoàn Thị
Điểm Quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh với 30 cán bộ quản lí (CBQL), 60
giáo viên (GV) cùng 120 học sinh (HS) lớp 4 và 120 phụ huynh (PH) của các
trường này.
4. Giả thuyết khoa học:
Nếu đề xuất thực hiện được các biện pháp tích hợp nội dung GDKNS trong
DH môn Tiếng Việt có tính khoa học, khả thi thì có thể nâng cao chất lượng
GDKNS cho HS.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu:
5.1.

Nghiên cứu cơ sở lí luận về vấn đề tích hợp nội dung GDKNS trong

DH môn Tiếng Việt lớp 4.

5.2.

Nghiên cứu thực trạng tích hợp nội dung GDKNS trong môn Tiếng

Việt cho HS lớp 4.
5.3.

Đề xuất và tổ chức khảo nghiệm tính cần thiết và khả thi của các biện

pháp tích hợp nội dung GDKNS trong DH môn Tiếng Việt lớp 4.
6. Phạm vi nghiên cứu:
6.1. Không gian và địa điểm nghiên cứu:
Đề tài được thực hiện có phạm vi nghiên cứu ở các trường Tiểu học trên địa
bàn Quận Tân Phú,TP.HCM.
6.2. Về nội dung nghiên cứu:
Tập trung xây dựng một số biện pháp tích hợp GDKNS cho HS lớp 4 trong
dạy học môn Tập đọc.
7. Phương pháp nghiên cứu:
7.1.Nhóm phương pháp nghiên cứu lí luận:
Sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa, cụ thể hóa các tài
liệu lý luận có liên quan đến đề tài nghiên cứu.
7.2.Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
Sử dụng phương pháp điều tra, tổng kết kinh nghiệm, nghiên cứu sản phẩm
hoạt động nhằm tìm hiểu thực trạng về vấn đề tích hợp nội dung GDKNS trong
DH Tiếng Việt lớp 4.
Sử dụng phương pháp lấy ý kiến chuyên gia để khảo nghiệm tính khả thi của
các biện pháp được đề xuất.
7.3.Phương pháp thống kê toán học:
Sử dụng toán thống kê để xử lí số liệu thu được về phương diện định lượng
và định tính.
8. Đóng góp của luận văn :
Đóng góp về mặt lí luận: làm sáng tỏ cơ sở lí luận về GDKNS và GDKNS
cho HS lớp 4 trong DH môn Tiếng Việt.

Đóng góp về mặt thực tiễn: đề xuất những giải pháp có tính hiện thực và
khả thi góp phần GDKNS cho HS lớp 4, nhằm nâng cao chất lượng GDKNS
cho HS Tiểu học của quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh.
9. Cấu trúc luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, kiến nghị, tài liệu tham khảo và phụ lục luận
văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận của đề tài
Chương 2: Thực trạng tích hợp nội dung giáo dục kĩ năng sống trong dạy
học Tiếng Việt lớp 4.
Chương 3: Một số biện pháp tích hợp nội dung giáo dục kĩ năng sống trong
dạy học Tiếng Việt lớp 4.

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ TÍCH HỢP GIÁO DỤC KĨ NĂNG SỐNG CHO HỌC
SINH LỚP 4 TRONG DẠY HỌC MÔN TIẾNG VIỆT
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề:
1.1.1. Các nghiên cứu ở nước ngoài:
Năm 1996 Uỷ ban Quốc tế về Giáo dục cho thế kỉ XXI do Jaccque Delor
làm chủ tịch đưa ra báo cáo nhằm khẳng định vai trò quan trọng của giáo dục
đối với sự phát triển tương lai của cá nhân, dân tộc, nhân loại và xem giáo dục là
“kho báu tiềm ẩn” với 4 vấn đề chính là mục tiêu hàng đầu của UNIDEF, mà
thực chất đó chính là cách tiếp cận kĩ năng sống (KNS):
-

Học để biết.
Học để làm.
Học để tự khẳng định mình.
Học để cùng chung sống.[3]

Giáo dục KNS cho HS là một trong những vấn đề mà hiện nay đang được
thế giới quan tâm:
Tại một số quốc gia, GDKNS được lồng ghép vào các môn học, chủ đề,
nội dung có liên quan trực tiếp đến những vấn đề bức xúc trên thực tế.
Chẳng hạn:
Ở Ruwanda: GDKNS hướng đến giáo dục lòng yêu hoà bình (giải quyết
xung đột, tự nhận thức, và tinh thần cộng đồng)
Ở Ma-rốc: GDKNS hướng đến các vấn đề như vệ sinh, các vấn đề nổi
cộm ở đô thị, bảo quản nguồn nước.
Ở Trung Quốc: GDKNS được lồng ghép vào các môn học trong nhà
trường về giáo dục đạo đức, giáo dục lao động và xã hội.
Ở Miến Điện: Dự án của UNICEF đã có tác động đối với giáo trình và
tiến trình giảng dạy cũng như học tập. Các chủ đề bao gồm: sức khoẻ, vệ sinh cá
nhân, sự phát triển thể chất, sức khoẻ tâm thần, phòng tránh các bệnh tiêu chảy,
rối loạn do thiếu iôt, lao phổi, sốt rét, và HIV/AIDS. Cùng với các chủ đề là rèn
luyện các kĩ năng như: kĩ năng ra quyết định, kĩ năng truyền thông và tự diễn
đạt, kĩ năng giao tiếp và hợp tác, khuyến khích lòng tự trọng, kĩ năng xử lý cảm
xúc và kĩ năng tư vấn.
Với tổ chức UNIDEF đã tiến hành dự án ở 5 nước Đông Nam Á nhằm vào các
vấn đề khác nhau liên quan đến KNS. Dự án này chia làm 2 giai đoạn:
- Giai đoạn 1: Xác định quan niệm của từng nước.
-

Giai đoạn 2: Đưa ra những chỉ dẫn đo đạc, đánh giá và xây dựng các

công cụ kiểm tra.
Ở một số quốc gia khác, GDKNS được lồng ghép vào các môn học, chủ
đề, nội dung có liên quan trực tiếp đến những vấn đề bức xúc trên thực tế.
Như vậy, việc GDKNS cho HS là một vấn đề mà hiện nay được quan tâm
và thực hiện rộng rãi và trở thành xu thế chung của nhiều quốc gia trên thế giới.
1.1.2. Các nghiên cứu ở trong nước:

Thuật ngữ KNS bắt đầu xuất hiện trong các nhà trường phổ thông Việt Nam từ
những năm 1995 - 1996 thông qua dự án “Giáo dục kĩ năng sống để bảo vệ sức
khoẻ và phòng chống HIV/AIDS cho thanh thiếu niên trong và ngoài nhà
trường” do UNICEF phối hợp Bộ GD & ĐT cùng Hội Chữ thập đỏ Việt Nam
thực hiện. Từ đó đến nay, nhiều cơ quan, tổ chức trong nước và quốc tế đã tiến
hành GDKNS gắn với giáo dục các vấn đề xã hội như: phòng chống ma túy,
phòng chống mại dâm, phòng chống buôn bán phụ nữ và trẻ em…Giáo dục phổ
thông nước ta những năm vừa qua đã được đổi mới cả về mục tiêu, nội dung và
phương pháp dạy học gắn với 4 trụ cột giáo dục của thế kỉ XXI : “Học để biết,
học để làm, học để tự khẳng định, học để cùng chung sống”.
Vấn đề tích hợp GDKNS còn mới mẻ nên chưa có nhiều công trình
nghiên cứu về nó, nếu có cũng mới chỉ dừng lại ở sự tiếp cận trên một vài
phương diện. Có thể thấy điều đó qua một số dự án như: Dự án "Trường học
nâng cao sức khoẻ” của Bộ GD & ĐT, Bộ y tế, tổ chức Y tế thế giới (WHO); Dự
án “Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh trung học cơ sở” của Bộ GD & ĐT. Còn
ở bậc Tiểu học thì dự án này đang triển khai thực hiện.
Bên cạnh đó, ở Việt Nam ta cũng có thể điểm qua một số công trình nghiên
cứu xem xét vấn đề GDKNS cho HS Tiểu học như: Giáo dục kỹ năng sống của
Giáo sư Nguyễn Võ Kỳ Anh (Giám đốc trung tâm giáo dục môi trường và sức
khoẻ cộng đồng (CECHE) [1]; Giáo dục kỹ năng sống bảo vệ sức khoẻ và
phòng chống HIV/AIDS trong trường học (Bộ GD&ĐT, Vụ Giáo dục thể chất);
Tiếp cận giáo dục kĩ năng sống trong trong giảng dạy vệ sinh môi trường ở Tiểu
học (Bộ GD&ĐT, Vụ Giáo dục thể chất); Giáo dục kĩ năng sống cho trẻ em có
hoàn cảnh khó khăn (Bộ GD & ĐT, Viện chiến lược và chương trình giáo dục);
Tài liệu tập huấn "Giáo dục sống khoẻ mạnh, kĩ năng sống và kĩ năng truyền
thông" cho trẻ em và trẻ chưa thành niên (Lê Thị Minh Châu, UNICEF),...
Đã có nhiều bài viết cũng như nhiều công trình nghiên cứu khoa học về
vấn đề này của các tác giả như: TS. Lưu Thị Thuỷ; TS. Nguyễn Kim Dung; TS.

Vũ Thị Sơn; TS. Huỳnh Văn Sơn; PGS.TS Nguyễn Thị Hường; PGS.TS Nguyễn
Thanh Bình, PGS TS. Nguyễn Dục Quang; Bác sĩ Lê Công Phượng,...
Mặc dầu vậy, cho đến hiện tại thì chưa có một công trình nào nghiên cứu vấn
đề tích hợp GDKNS cho cho HS lớp 4 trong DH môn Tiếng Việt.

1.2. Một số khái niệm cơ bản của đề tài:
1.2.1. Tích hợp:
Theo từ điển tiếng Việt, “tích hợp” là “sự hợp nhất, sự hòa nhận, sự kết
hợp”. Tích hợp (integration) có nghĩa là sự hợp nhất, sự hoà nhập, sự kết
hợp.[24]
Theo Từ điển Giáo dục học thì tích hợp là “hành động liên kết các đối
tượng nghiên cứu, giảng dạy, học tập của cùng một lĩnh vực hoặc vài lĩnh vực
khác nhau trong cùng một kế hoạch giảng dạy”. Kế hoạch giảng dạy ở đây cần
được hiểu trong một phạm vi rộng, từ kế hoạch giảng dạy của một chương trình
đến kế hoạch giảng dạy của một môn học, kế hoạch giảng dạy của bài học. Cũng
theo các tác giả của từ điển này thì có hai kiểu tích hợp là tích hợp dọc và tích
hợp ngang với nhiều nội dung tích hợp khác nhau.
Nội hàm khoa học khái niệm tích hợp có thể hiểu một cách khái quát là sự
hợp nhất hay là sự nhất thể hoá đưa tới một đối tượng mới như là một thể thống
nhất trên những nét bản chất nhất của các thành phần đối tượng. Hiểu như vậy,
tích hợp có hai tính chất cơ bản, liên hệ mật thiết với nhau, quy định lẫn nhau đó
là tính liên kết và tính toàn vẹn:
- Liên kết phải tạo thành một thực thể toàn vẹn, không còn sự phân chia
giữa các thành phần kết hợp.
- Tính toàn vẹn dựa trên sự thống nhất nội tại các thành phần liên kết, chứ
không phải sự sắp đặt các thành phần bên cạnh nhau.
Không thể gọi là tích hợp nếu các tri thức, kĩ năng chỉ được thụ đắc, tác
động một cách riêng rẽ, không có sự liên kết, phối hợp với nhau trong lĩnh hội
nội dung hay giải quyết một vấn đề, tình huống.
Như vậy, trong dạy học, tích hợp có thể được xem như sự liên kết các đối
tượng giảng dạy, học tập trong cùng một kế hoạch hoạt động để đảm bảo sự
thống nhất, hài hòa, trọn vẹn của hệ thống dạy học nhằm đạt mục tiêu dạy học
tốt nhất.[33]

1.2.2. Kĩ năng sống:
Có nhiều quan niệm khác nhau về kĩ năng sống:
- Quan niệm cho rằng KNS (life skill) là năng lực cá nhân để thực hiện
đầy đủ các chức năng và tham gia vào cuộc sống hàng ngày.
- Quan niệm xem KNS là những kĩ năng thiết thực mà con người cần có
để có cuộc sống an toàn và khoẻ mạnh.
- Theo tổ chức y tế thế giới (WHO), KNS là những kĩ năng tâm lí xã hội
để tương tác với người khác và giải quyết những vấn đề, những tình huống của
cuộc sống hàng ngày một cách có hiệu quả.
- Quan niệm cho rằng, KNS là những khả năng tâm lí xã hội của người
cho những hành vi thích ứng và tích cực giúp cho bản thân đối phó hiệu quả với
những đòi hỏi và thử thách của cuộc sống.
- Theo UNICFEE, “Kĩ năng sống là cách tiếp cận giúp thay đổi hoặc hình
thành hành vi nới. Cách tiếp cận này lưu ý đến sự cân bằng về tiếp thu kiến thức,
hình thành thái độ và kĩ năng.”
- Theo từ điển Wikipedia, “Kĩ năng sống là tập hợp các kĩ năng của con
người có được qua việc học hoặc việc trải nghiệm trực tiếp trong cuộc sống,
dùng để giải quyết những vấn đề mà con người thường phải đối mặt trong cuộc
sống hằng ngày.”
- Theo Y tế thế giới (WHO) “Kĩ năng sống là khả năng để có hành vi
thích ứng và tích cực, giúp các cá nhân có thể ứng xử hiệu quả trước các nhu cầu
và thách thức của cuộc sống hàng ngày.
- Theo từ điển Wikipedia, “Kĩ năng sống là tập hợp các kĩ năng của con
người có được qua việc học hoặc việc trải nghiệm trực tiếp trong cuộc sống,
dùng để giải quyết những vấn đề mà con người thường phải đối mặt trong cuộc
sống hằng ngày.”
Từ những quan điểm trên có thể thấy KNS bao gồm một loạt các kĩ năng
cụ thể, cần thiết cho cuộc sống hàng ngày của con người. Cần phân biệt KNS
với các kĩ năng quan trọng được gọi là “kĩ năng của cuộc sống” mà con ngưới

có được trong quá trình trưởng thành như đọc, đếm, các kĩ năng kĩ thuật và thực
hành…
Bản chất của KNS là kĩ năng tự quản lí bản thân và kĩ năng xã hội cần
thiết để cá nhân tự lực trong cuộc sống, học tập và làm việc hiệu quả. Nói một
cách khác, KNS là khả năng làm chủ bản thân của mỗi người, khả năng ứng xử
phù hợp với những người khác và với xã hội, khả năng ứng phó tích cực trước
các tình huống của cuộc sống.[3]
1.2.3 Giáo dục kĩ năng sống:
Trong thực tiễn, GDKNS được xem xét ở các mặt:
- Như là một lĩnh vực học tập: như giáo dục sức khoẻ, HIV/AIDS. Ở lĩnh
vực này đã tồn tại cách tiếp cận kỹ năng sống từ khá lâu.
- Như là một cách tiếp cận giúp giáo viên tiến hành giáo dục có chất
lượng xuyên suốt các lĩnh vực học tập.
UNICEF, UNESCO cũng quan niệm rằng, GDKNS không phải là lĩnh
vực hay môn học, nhưng nó được áp dụng lồng vào những kiến thức, giá trị và
kỹ năng quan trọng trong quá trình phát triển của cá nhân và học tập suốt đời.
Như vậy, GDKNS được xem như là một cách tiếp cận giáo dục nhằm mục
đích giúp con người có những khả năng tâm lý xã hội để tương tác với người
khác và giải quyết những vấn đề, những tình huống của cuộc sống hàng ngày
một cách có hiệu quả.
Có thể nói GDKNS không thể thiếu được trong giáo dục, cả giáo dục
chính qui và không chính qui.
1.2.4 Tích hợp GDKNS:
Theo UNICFEE thì tích hợp GDKNS là giáo dục dựa trên các KNS cơ
bản và là sự thay đổi trong hành vi hay một sự phát triển hành vi nhằm tạo sự
cân bằng giữa kiến thức, thái độ, hành vi. Ngắn gọn nhất đó là khả năng chuyển
đổi kiến thức (phải làm gì) và thái độ (ta đang nghĩ gì, cảm xúc như thế nào, hay
tin tưởng vào giá trị nào) thành hành động (làm gì và như thế nào).

KNS được hình thành theo một quá trình với một cách tự nhiên qua
những va chạm, những trải nghiệm trong cuộc sống và qua giáo dục mà có. Vì
thế, tích hợp GDKNS là con đường hiệu quả để hình thành KNS cho HS Tiểu
học.
Có 21 KNS được xem là nội dung giáo dục trong nhà trường phổ thông
như:
1. Kĩ năng tự nhận thức.
2. Kĩ năng xác định giá trị.
3. Kĩ năng kiểm soát cảm xúc.
4. Kĩ năng ứng phó với căng thẳng.
5. Kĩ năng tìm kiếm sự hỗ trợ.
6. Kĩ năng thể hiện sự tự tin.
7. Kĩ năng giao tiếp.
8. Kĩ năng lắng nghe tích cực.
9. Kĩ năng thể hiện sự cảm thông.
10. Kĩ năng thương lượng
11. Kĩ năng hợp tác.
12. Kĩ năng tư duy phê phán.
13. Kĩ năng tư duy sáng tạo.
14. Kĩ năng ra quyết định.
15. Kĩ năng giải quyết vấn đề.
16. Kĩ năng kiên định.
17. Kĩ năng đảm nhận trách nhiệm.
18. Kĩ năng đặt mục tiêu.
19. Kĩ năng quản lý thời gian.
20. Kĩ năng tìm kiếm và xử lý thông tin.
21. Kĩ năng giải quyết mâu thuẫn.

Nhìn chung ta thấy có nhiều KNS, nhưng qua các nghiên cứu lý luận và
thực tiễn giáo dục tiểu học, chúng tôi nhận thấy các KNS đặc thù và có nhiều ưu
thế tích hợp trong DH môn Tiếng Việt bao gồm:
- Kĩ năng giao tiếp; lắng nghe; thể hiện sự tự tin...
- Kĩ năng nhận thức (gồm kĩ năng đặt mục tiêu, xác định giá trị, tư duy
sáng tạo,...)
Khi lựa chọn tích hợp giáo dục các KNS nói trên, người giáo viên (GV)
cần lưu ý đến các đặc điểm về tâm sinh lí của HS ở bậc Tiểu học và đặc trưng
môn Tiếng Việt để đạt kết quả tối ưu.
1.3. Tầm quan trọng, mục đích và nguyên tắc của tích hợp GDKNS cho HS:
1.3.1. Tầm quan trọng của tích hợp GDKNS cho HS:
KNS góp phần thúc đẩy sự phát triển nhân cách cá nhân của HS Tiểu học,
từ đó góp phần thúc đẩy sự phát triển xã hội. KNS như những nhịp cầu giúp con
người biến kiến thức thành hành vi cụ thể, thành những thói quen lành mạnh.
Nếu có một vốn KNS cơ bản vững chắc thì người ta sẽ luôn vững vàng trước
những khó khăn, thử thách, họ thường thành công hơn trong cuộc sống, luôn yêu
đời và làm chủ cuộc đời.
Đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục phổ thông, GDKNS cho HS trong các
nhà trường phổ thông là xu thế chung của nhiều nước trên thế giới.
Đối với HS Tiểu học thì vấn đề GDKNS càng có ý nghĩa quan trọng. Vì ở
lứa tuổi của các em tính tò mò, bắt chước là đặc tính phổ biến và các em cũng
thường chịu nhiều ảnh hưởng của bạn bè đồng trang lứa, vốn kinh nghiệm sống
của các em còn nông cạn nên có thể dẫn đến những hành vi ứng phó không lành
mạnh, kết quả là làm tổn hại đến chính các em. Trong điều kiện hiện nay, các em
sớm được tiếp xúc với xã hội bên ngoài, vì vậy mà bên cạnh những yếu tố tích
cực của sự phát triển xã hội, các em còn chịu những ảnh hưởng tiêu cực mà
người ta gọi là mặt trái của cơ chế thị trường dẫn đến những căng thẳng, tạo ra
những sự lôi kéo, dụ dỗ. Vì thế các em dễ trở thành nạn nhân của tình trạng lạm
dụng hay bạo lực, căng thẳng, mất lòng tin, mặc cảm,...

Do đó, việc tích hợp GDKNS cho HS bậc Tiểu học là hết sức cần thiết,
giúp các em có trách nhiệm với bản thân, gia đình và cộng đồng; có khả năng
ứng phó một cách có hiệu quả trước sự lôi kéo của bạn bè đồng trang lứa; giúp
các em có một cuộc sống an toàn, có hành vi, thói quen lành mạnh về thể chất và
tinh thần.
1.3.2. Mục đích tích hợp GDKNS cho HS:
Việc tích hợp GDKNS làm cho quá trình học tập của HS có ý nghĩa.
Các quá trình học tập không bị cô lập với cuộc sống hằng ngày mà được
tiến hành trong mối quan hệ với những tình huống có ý nghĩa đối với người
học.
Tích hợp GDKNS cũng chính là thực hiện mục tiêu giáo dục toàn
diện, làm cho người học trở thành người công dân có trách nhiệm, người
lao động có năng lực và tự lập; giúp cho người học khả năng huy động
những kiến thức và năng lực của mình để giải quyết một cách có hiệu quả
một tình huống xuất hiện, đối với một khó khăn bất ngờ hay một tình
huống chưa từng gặp.
Đặc biệt, GDKNS góp phần thúc đẩy sự phát triển cá nhân và xã hội,
ngăn ngừa các vấn đề về sức khoẻ, xã hội và bảo vệ quyền con người. GDKNS
có thể thúc đẩy những hành vi mang tính xã hội tích cực và do vậy sẽ làm giảm
bớt tệ nạn xã hội.
Như vậy, GDKNS giúp HS ở Tiểu học sống an toàn, lành mạnh, có chất
lượng trong một xã hội hiện đại với văn hoá đa dạng và với nền kinh tế phát triển nơi mà thế giới được coi là một mái nhà chung.
1.3.3.Nguyên tắc tích hợp GDKNS:
Để đảm bảo sự tương tác của HS với GV, GV với nhóm HS thì KNS
không thể được hình thành qua việc nghe giảng, tự đọc tài liệu mà cần tổ chức
cho HS tham gia các hoạt động, được trải nghiệm, được tương tác cùng với GV
trong quá trình giáo dục.

Nhằm đảm bảo cho sự trải nghiệm trên: HS cần được đặt vào các tình
huống để trải nghiệm và thực hành. Lưu ý đảm bảo về thời gian, không gian phù
hợp vì GDKNS cần thực hiện ở mọi nơi, mọi lúc và thực hiện càng sớm càng tốt
đối với trẻ em.
Mức độ cao nhất của GDKNS là kết quả đạt được giúp HS thay đổi hành
vi theo hướng tích cực. Việc thực hiện GDKNS có thể được xem cụ thể như sau:

NHẬN THỨC

HÌNH THÀNH THÁI ĐỘ

Muốn kết quả này đượcTHAY tất yếu cần một thời gian nhất định, không
tốt thì ĐỔI HÀNH VI
thể hình thành trong “ ngày một, ngày hai” mà đòi hỏi phải có cả quá trình,
không thể hình thành ngay cho các em được.
1.4.

Một số đặc điểm tâm sinh lí của HS lớp 4 có liên quan đến việc tích

hợp GDKNS trong DH môn Tiếng Việt:
1.4.1. Đặc điểm về mặt cơ thể và giới tính:
Đây là thời kì cơ thể và giới tính phát triển mạnh mẽ về cả chiều cao và
cân nặng. Trọng lượng não phát triển bằng người lớn, đặc biệt thùy trán phát
triển mạnh. Có sự cân bằng hơn trong hoạt động của quá trình hưng phấn và ức
chế.
Ở lứa tuổi này, các em đang có sự hoàn thiện về cơ thể và bước vào dấu
hiệu của tuổi dậy thì. Các em có biểu hiện ưa thích việc tham gia vào các hành
vi định hình giới tính và hay tò mò.
1.4.2. Đặc điểm của quá trình nhận thức:
1.4.2.1. Tri giác:

Ở lứa tuổi Tiểu học, hệ thống tín hiệu thứ nhất còn chiếm ưu thế nên nhận
thức của các em còn mang nặng màu sắc cảm tính. Các em rất nhạy cảm với các
tác động bên ngoài, điều này phản ánh rõ trong các quá trình nhận thức của HS
như: tri giác, chú ý, trí nhớ, tư duy và trí tưởng tượng.
Về nhu cầu nhận thức thì HS ở Tiểu học có nhu cầu được thoả mãn trong
hành động và nhận thức. Nhận thức của HS còn phần nào mang tính khái quát.
Các em đã biết tìm các dấu hiệu đặc trưng cho sự vật, hiện tượng. Chính vì vậy
mà người GV Tiểu học phải biết cách làm cho trẻ tin vào khả năng nhận thức
của mình, giúp các em xác định được giá trị, niềm tin, chính kiến, thái độ và
định hướng cho hoạt động, hành vi của bản thân.[6]
Tri giác của HS còn mang tính chất đại thể, ít đi sâu vào chi tiết và không
chủ động. Do đó, các em phân biệt các đối tượng còn chưa chính xác, dễ sai
lầm, có khi còn lẫn lộn. Đối với các em những hình ảnh rực rỡ, sinh động rất dễ
gây ấn tượng và giúp các em tri giác tốt hơn. Càng về sau, khi tham gia các hoạt
động học tập, tri giác trở thành hoạt động có mục đích, phức tạp và có phân tích,
phân hoá đơn giản thì tri giác mang tính chất của sự quan sát có tổ chức hơn.
Tri giác của HS cuối Tiểu học mang màu sắc xúc cảm và bắt đầu có tính
mục đích, có phương hướng rõ ràng, các em biết lập kế hoạch học tập, biết sắp
xếp công việc nhà, biết làm bài tập từ dễ đến khó,…
Vì vậy, với vai trò của nhà giáo dục thì GV cần phải thu hút HS bằng các
hoạt động mới, mang màu sắc, tính chất đặc biệt khác lạ so với bình thường. Có
như vậy mới kích thích HS cảm nhận, tri giác tích cực và chính xác.
1.4.2.2. Tư duy:
Tư duy của HS giai đoạn này đã thay đổi về chất, tư duy trừu tượng phát
triển mạnh mẽ, biết tổng hợp các sự vật hiện tượng, tích lũy được nhiều kinh
nghiệm hơn so với các lớp đầu bậc học. Các em đã có khả năng phân tích, khái
quát, biết phê phán và kiến thức lĩnh hội không chỉ một chiều.

Tư duy trực quan còn chiếm ưu thế ở HS Tiểu học nhưng đến giai đoạn
lớp 4 thì các em đã có thể phân tích đối tượng mà không cần đến những hành
động thực tiễn đối với các đối tượng đó. Ở các em đã hình thành tư duy trừu
tượng. Đây là cơ sở để tích hợp GDKNS cho các em trong quá trình dạy học
môn Tiếng Việt. Chính vì vậy mà trong quá trình DH người GV vần chú ý các
hoạt động kích thích tư duy và khả năng phân tích, tổng hợp của các em.
1.4.2.3. Tưởng tượng:
Ở lứa tuổi này, tưởng tượng tái tạo đã bắt đầu hoàn thiện, từ những hình
ảnh cũ, trẻ đã tái tạo ra những hình ảnh mới. Tưởng tượng sáng tạo tương đối
phát triển, trẻ bắt đầu phát triển khả năng làm thơ, làm văn, vẽ tranh,… Đặc biệt,
trí tưởng tượng của các em trong giai đoạn này bị chi phối mạnh mẽ bởi các xúc
cảm, tình cảm, những hình ảnh, sự việc, hiện tượng đều gắn liền với các rung
động tình cảm của các em.
Tưởng tượng của HS Tiểu học đã phát triển và phong phú hơn so với giai
đoạn trước. HS nào càng có nhiều tưởng tượng thì HS càng gần hiện thực hơn.
Sở dĩ như vậy là do các em đã có kinh nghiệm khá phong phú, đã lĩnh hội được
những tri thức do nhà trường đem lại.
Trong quá trình DH môn Tiếng Việt, GV cần khơi dậy trí tượng tượng của
HS trong các điều kiện thực tế, dần hình thành những KNS cần thiết ban đầu trong
hoàn cảnh cụ thể để phát triển các khả năng ứng xử, đối phó phù hợp.
1.4.2.4. Trí nhớ:
Đến giai đoạn lớp 4 thì việc ghi có ý nghĩa và ghi nhớ từ ngữ được tăng
cường. Ghi nhớ có chủ định đã phát triển. Tuy nhiên, hiệu quả của việc ghi nhớ
có chủ định còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như mức độ tích cực tập trung trí tuệ
của các em, sức hấp dẫn của nội dung, yếu tố tâm lí tình cảm hay sự hứng thú
của các em.
Bên cạnh đó, ở HS Tiểu học thì trí nhớ trực quan hình tượng phát triển tốt
hơn trí nhớ từ ngữ - lôgic. Các em nhớ và giữ gìn chính xác các sự vật, hiện