Tiểu luận khái quát tư tưởng hồ chí minh về cách mạng giải phóng dân tộc
I. Khái quát tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải
phóng dân tộc
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mất hàng chục năm bôn ba để
tìm đường cứu nước và đã phải bỏ ra khoảng mười năm để tìm
hiểu các cuộc cách mạng lớn trên thế giới và khảo sát cuộc sống
của nhân dân các dân tộc bị áp bức ở nhiều nước thuộc địa. Qua
cả một quá trình tích lũy bằng vốn sống và học tập không mệt
mỏi đó, cùng với một trí tuệ sắc sảo, Hồ Chí Minh đã hình thành
nên một hệ thống luận điểm về cách mạng giải phóng dân tộc ở
thuộc địa mà có thể nói, đó là cả một sự đóng góp to lớn, góp
phần bổ sung và hoàn thiện thêm hệ thống lý luận của chủ nghĩa
Mác-Lênin.
Tư tưởng HCM về cách mạng giải phóng dân tộc có thể
tóm tắt thành một hệ thống luận điểm sau đây:
Một là, cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi
phải đi theo con đường của cách mạng vô sản.Từ đầu những
năm 20 thế kỷ XX, Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định rằng muốn
đánh bại chủ nghĩa đế quốc thì phải kết hợp cách mạng vô sản ở
chính quốc với cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa; phải
xem cách mạng ở thuộc địa như là một trong những cái cánh của
cách mạng vô sản, và cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng
lợi phải đi theo con đường cách mạng vô sản.
Hai là, cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải
do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo. Nguyễn Ái Quốc đã
sớm khẳng định: muốn giải phóng dân tộc thành công "trước hết
phải có đảng cách mệnh", "đảng có vững cách mệnh mới thành
công" "Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt", đó là
chủ nghĩa Mác-Lênin.
Ba là, cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp đoàn
kết của toàn dân trên cơ sở liên minh công nông.
Bốn là, cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành
chủ động, sáng tạo và có khả năng giành thắng lợi trước CM vô
sản ở chính quốc. Đây là một luận điểm mới và sáng tạo của
HCM. Do nhận thức được thuộc địa là một khâu yếu trong hệ
thống của chủ nghĩa đế quốc, do đánh giá đúng đắn sức mạnh
của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc, ngay từ năm 1924,
Người đã sớm cho rằng cách mạng thuộc địa không những
không phụ thuộc vào CM vô sản ở chính quốc mà có thể giành
thắng lợi trước. Đây là một cống hiến rất quan trọng vào kho
tàng lý luận Mác-Lênin, đã được thắng lợi của cách mạng Việt
Nam chứng minh là hoàn toàn đúng đắn.
Năm là, CM giải phóng dân tộc phải được thực hiện bằng
con đường bạo lực, kết hợp lực lượng chính trị của quần chúng
với lực lượng vũ trang của nhân dân.
Tóm lại, HCM đã vận dụng sáng tạo và phát triển học
thuyết của Lênin về cách mạng thuộc địa thành một hệ thống
quan điểm mới mẻ, sáng tạo, bao gồm cả đường lối chiến lược,
sách lược và phương pháp tiến hành cách mạng giải phóng dân
tộc ở thuộc địa.
II. Quan điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh về cách mạng
giải phóng dân tộc.
Hệ thống tư tưởng của Hồ Chí Minh về cách mạng giải
phóng dân tộc được cho là có giá trị góp phần phát triển, hoàn
thiện thêm hệ thống lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin, bổ sung đáng
kể cho lý luận chủ nghĩa Mác-lênin về cách mạng giải phóng
dân tộc. Người cho rằng: cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc
địa cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và có khả năng giành
thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc. Đây là một luận
điểm mới mẻ và sáng tạo của Hồ Chí Minh.
1. Quan điểm cách mạng giải phóng dân tộc có khả
năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc
của Hồ Chí Minh
Từ năm 1919 đến năm 1928, Quốc tế cộng sản vẫn cho
rằng cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa chỉ
thành công sau khi giai cấp vô sản ở các nước chính quốc giành
được thắng lợi. Quan điểm này vô hình chung đã làm giảm tính
chủ động, sáng tạo của các phong trào cách mạng ở thuộc địa.
Tuyên ngôn thành lập Quốc tế Cộng sản năm 1919 có đoạn viết:
“Công nhân và nông dân không những ở An Nam, Angiêri,
Bengan mà cả Ba Tư hay Acmenica chỉ có thể dành được độc
lập khi mà công nhân các nước Anh và pháp lật đổ được Looiit
Gioocgiơ và Clêmăngxô giành chính quyền nhà nước vào tay
mình”. Những luận cương về phong trào cách mạng trong các
nước thuộc địa và nữa thuộc địa được thông qua tại đại hội VI
Quốc tế Cộng sản, ngày 1-9-1928 viết: “Chỉ có thể thực hiện
được công cuộc giải phóng hoàn toàn các thuộc địa khi giai cấp
vô sản giành được thắng lợi ở các nước tư bản tiên tiến”.
Tháng 6 năm 1924, phát biểu tại đại hội V Quốc tế Cộng
sản, Hồ Chí Minh đã khẳng định vai trò, vị trí chiến lược của
cách mạng thuộc địa: “…vận mệnh của giai cấp vô sản thế giới
và đặc biệt là vận mệnh của giai cấp vô sản ở các nước đi xâm
lược thuộc địa gắn chặt với vận mệnh của giai cấp bị áp bức ở
các thuộc địa”, “…nọc độc và sức sống của con rắn độc tư bản
chủ nghĩa đang tập trung ở các thuộc địa hơn các nước chính
quốc” và nếu xem thường cách mạng ở thuộc địa tức là “muốn
đánh chết rắn đằng đuôi”. Như vậy, Hồ Chí Minh đã có một
cách nhìn nhận, đánh giá rất mới về vị trí và vai trò của cách
mạng ở các nước thuộc địa, vị trí, vai trò đó được đánh giá cao,
không thể coi thường trong quan điểm của Người. Theo Hồ Chí
Minh khối liên minh các dân tộc thuộc địa là một trong những
cái cánh của cách mạng vô sản, nhân dân các dân tộc thuộc địa
có khả năng cách mạng to lớn. Người cũng khẳng định, giữa
cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa và cách mạng vô sản
ở chính quốc có mối quan hệ mật thiết với nhau, tác động qua
lại lẫn nhau trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung là chủ
nghĩa đế quốc. Đó là mối quan hệ bình đẳng chứ không phải là
quan hệ lệ thuộc, hoặc quan hệ chính - phụ. Để thể hiện cho
quan điểm này, Người đã ví với một hình ảnh quen thuộc, dễ
hiểu và cũng đầy sáng tạo trong tư tưởng đó là “con đỉa hai vòi”.
Năm 1925, Hồ Chí Minh viết: “chủ nghĩa tư bản là một con đỉa
có một cái vòi bám vào giai cấp vô sản ở chính quốc và một cái
vòi khác bám vào giai cấp vô sản ở thuộc địa. Nếu muốn giết
chết con vật ấy, người ta phải đồng thời cắt bỏ hai vòi. Nếu
người ta chỉ cắt một vòi thôi, thì cái vòi còn lại kia vẫn tiếp tục
hút máu của giai cấp vô sản, con vật vẫn tiếp tục sống và cái vòi
bị cắt đứt lại sẽ mọc ra”.
Từ việc nhận thức được rằng, thuộc địa là khâu yếu nhất
trong hệ thống của chủ nghĩa đế quốc, còn chủ nghĩa yêu nước
chân chính ở thời hiện đại đã trở thành động lực của cách mạng
giải phóng dân tộc, Hồ Chí minh đã khẳng định quan điểm của
Người rằng: “Cách mạng thuộc địa không những không phụ
thuộc vào cách mạng vô sản ở chính quốc mà có thể giành
thắng lợi trước”, Người viết: “Ngày mà hàng trăm triệu nhân
dân châu Á bị tàn sát và áp bức thức tỉnh để gạt bỏ sự bóc lột đê
tiện của một bọn thực dân lòng tham không đáy, họ sẽ hình
thành một lực lượng khổng lồ, và trong khi thủ tiêu một trong
những điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế
quốc, họ có thể giúp đỡ những người anh em mình ở phương
Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn”. Trong tác phẩm
Đường cách mệnh, Hồ Chí Minh có sự phân biệt về nhiệm vụ
của cách mạng vô sản và cách mạng giải phóng dân tộc và cho
rằng: hai thứ cách mạng đó tuy có khác nhau, nhưng có quan hệ
chặt chẽ với nhau. Người nêu ví dụ: “An Nam dân tộc cách
mệnh thì tư bản Pháp yếu, tư bản Pháp yếu thì công nông Pháp
làm cách mệnh cũng dễ. Và nếu công nông Pháp làm cách mệnh
thành công, thì dân tộc An Nam sẽ được tự do”.
Đây là một luận điểm sáng tạo, có giá trị lý luận và thực
tiễn rất to lớn, một cống hiến rất quan trọng vào kho tàng lý luận
Mac-Lênin, đã được thắng lợi của phong trào cách mạng giải
phóng dân tộc trên toàn thế giới trong gần một thế kỷ qua
chứng minh là hoàn toàn đúng đắn.
2. Thế nào là tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc
một cách chủ động và sáng tạo
Trên cơ sở việc nhận thức một cách đúng đắn, sáng tạo khi
khẳng đinh cách mạng vô sản ở thuộc địa có khả năng giành
thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc, Hồ Chí Minh đã
nhấn mạnh sự cần thiết của hai yếu tố chủ động và sáng tạo đối
với việc tiến hành cách mạng ở các nước thuộc địa. Vậy, chủ
động và sáng tạo mà Người muốn nói ở đây là gì?
Vận dụng công thức của C.Mác: “sự giải phóng của giai
cấp công nhân phải là sự nghiệp của bản thân giai cấp công
nhân”, Người đưa ra luận điểm: “Công cuộc giải phóng anh em
(tức nhân dân thuộc địa) chỉ có thể thực hiện được bằng sự nổ
lực của bản thân anh em”. Có nghĩa là phải phát huy tính chủ
động của bản thân mỗi dân tộc thuộc địa để đấu tranh tự giải
phóng.
Vào sinh thời của Mác – Ăngghen, các cuộc đấu tranh
giành độc lập chưa phát triển mạnh, trung tâm cách mạng thế
giới vẫn ở châu Âu, vận mệnh loài người vẫn được coi là phụ
thuộc vào thắng lợi của cách mạng vô sản ở các nước chủ nghĩa
tư bản phát triển. Do đó, tương lai của cách mạng giải phóng
dân tộc ở thuộc địa cũng được nhìn nhận trong sự phụ thuộc vào
thắng lợi của cách mạng vô sản ở chính quốc. Trái lại, vấn đề
đặt ra trước mắt cho các thuộc địa phương Đông không phải làm
ngay một cuộc cách mạng vô sản, mà trước hết là phải đấu tranh
giành độc lập cho dân tộc, có độc lập dân tộc rồi mới có địa bàn
để tiến lên làm cách mạng xã hội chủ nghĩa. Hơn nữa, yêu cầu
bức thiết của sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc không cho
phép ỷ lại, ngồi chờ thắng lợi của cách mạng vô sản ở châu Âu
để được trả lại nền độc lập cho các dân tộc thuộc địa. Từ thực
tiễn đó, Nguyễn Ái Quốc đã tiến hành đấu tranh, phê phán quan
điểm sai trái của một số Đảng Cộng sản Tây Âu trong cách nhìn
nhận, đánh giá về vai trò vị trí, cũng như tương lai của cách
mạng thuộc địa và đi đến luận điểm: Các dân tộc thuộc địa phải
dựa vào sức của mình, đồng thời biết tranh thủ đoàn kết, ủng hộ
của giai cấp vô sản và nhân dân lao động thế giới, để trước hết
phải đấu tranh giành lại độc lập cho dân tộc, rồi từ thắng lợi của
cách mạng giải phóng dân tộc tiến lên làm cách mạng xã hội chủ
nghĩa và đóng góp thiết thực vào sự nghiệp cách mạng vô sản
thế giới. Như vậy, trong quan điểm của Hồ Chí Minh về tính
chủ động trong cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa, chủ
động ở đây nói tóm lại là các dân tộc thuộc địa phải dựa vào sức
mình là chính, sự nghiệp đấu tranh giải phóng là cho dân tộc
minh và của dân tộc mình, không cho phép ỷ lại sự thắng lợi của
cách mạng vô sản ở chính quốc; phải giành độc lập cho dân tộc
mình rồi sau đó mới có địa bàn để tiến lên làm cách mạng xã hội
chủ nghĩa. Đây lại là một quan điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh
trong hệ thống tư tưởng của Người về cách mạng giải phóng dân
tộc, giúp các dân tộc thuộc địa, và đặc biệt là chính Hồ Chí
Minh đã chứng minh tính đúng đắn của nó khi Người đưa con
thuyền cách mạng Việt Nam cập bến, giành được độc lập dân
tộc và khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Khi yếu tố chủ động đã được đặt ra đối với mỗi dân tộc
thuộc địa, thì vấn đề tiếp theo là phải tiến hành cách mạng
phóng theo con đường nào? Có nên áp dung con đườn đi của
một vài nước trên thế giới đã tiến hành (như Nga, hay như Hoa
Kỳ…)? Do đó, trong quan điểm của Hồ Chí Minh thì cách mạng
giải phóng dân tộc cần phải được tiến hành một cách sáng tạo.
Có nghĩa rằng, Trong quan điểm của Người, cuộc cách mạng
giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa phải được tiến hành
trong điều kiện lịch sử của dân tộc mình; mỗi dân tộc có những
đặc thù riêng về lịch sử, về điều kiện và các yếu tố để tiến hành
một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Dân tộc này không thể
giáo điều theo con đường của dân tộc khác, phải phát huy tinh
thần sáng tạo, phát huy những gì mà dân tộc mình có, biến thành
sức mạnh cho dân tộc mình, trở thành yếu tố động lực cho cuộc
cách mạng giải phóng dân tộc giành thắng lợi. Mỗi dân tộc phải
hoạch định đường lối chiến lược cách mạng cụ thể, phải có một
hệ tư tưởng làm ánh sáng chân lý soi đường, và phải biết vận
dụng hệ tư tưởng đó vào điều kiện lịch sử cụ thể của đất nước
mình, phát triển và làm giàu thêm kho tàng lý luận của hệ tư
tưởng đó. Và đối với lập trường quan điểm của Hồ Chí Minh thì
hệ tư tưởng, chủ nghĩa chân chính nhất vẫn là chủ nghĩa Mác –
Lênin.
Thực tiễn cuộc cách mạng giải phóng của dân tộc Việt
Nam gần nửa thế kỷ qua đã chứng minh cho luận điểm sáng tạo
của Hồ Chí Minh về cách mạng dân tộc ở thuộc địa. Nếu chúng
ta hình dung rằng, cuộc cách mạng giải phóng của dân tộc Việt
Nam không được tiến hành chủ động, sáng tạo thì liệu có đi đến
thắng lợi được hay không, khi mà cách mạng vô sản ở chính
quốc vẫn chưa thể làm được điều mà nhân loại tiến bộ cần. Hồ
Chí Minh đã khẳng định cách mạng giải phóng dân tộc phải gắn
liền với chủ nghĩa xã hội, Người thành lập ra Đảng Cộng sản
Việt Nam và giữ vai trò là lực lượng tiên phong, lái con thuyền
cách mạng cập bến thắng lợi. Trong suốt quá trình đấu tranh
giành độc lập của dân tộc, Đảng ta đã phát huy tính chủ động,
sáng tạo trong việc đề ra đường lối chiến lược và nhiệm vụ cách
mạng trong từng giai đoạn lịch sử của đất nước, mà đặc biệt là
Đảng ta, đứng đầu là chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo hai cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ giành thắng
lợi vẻ vang, tất cả đó là nhờ sự hình thành quan điểm sáng tạo
và vận dụng kịp thời vào thực tiễn cách mạng của dân tộc.
III. Kết luận
Quan điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh về cách mạng giải
phóng dân tộc sẽ còn mãi về mặt giá trị lý luận và thực tiễn, với
mọi dân tộc và với mọi thời đại. Đó là một sự đóng góp vô cùng
lớn cho sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc trên thế giới.
Trải qua những biến động của thời cuộc, Tư tưởng Hồ Chí Minh
về cách mạng giải phóng dân tộc càng chứng tỏ giá trị và sức
sống mãnh liệt của nó. Quan điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh về
cách mạng giải phóng dân tộc được ghi nhận như là một sự đóng
góp to lớn vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin.
Tính khoa học và tính cách mạng sáng tạo của Tư tưởng Hồ Chí
Minh đã được lịch sử kiểm chứng. Tư tưởng Hồ Chí Minh là
tinh hoa của dân tộc Việt Nam, là niềm tự hào của Đảng ta và
nhân dân ta. Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin và Tư
tưởng Hồ Chí Minh, toàn Đảng, toàn dân càng vững tin vào
thắng lợi của sự nghiệp đổi mới do Đảng lãnh đạo.
Ngày nay, khi sự nghiệp đổi mới ở nước ta ngày càng đi
vào chiều sâu, những biến chuyển trên thế giới ngày càng lớn,
những vấn đề mới đặt ra trong đời sống xã hội ngày càng nhiều,
đòi hỏi phải làm sáng tỏ, thì việc nghiên cứu, học tập, bảo vệ,
vận dụng và phát triển Tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tế cuộc
sống, trở thành nhiệm vụ quan trọng, cấp bách trong công tác
chính trị, tư tưởng, lý luận của toàn Đảng, toàn dân ta.
Trong đó việc nghiên cứu sâu thêm về tính sáng tạo của tư
tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc cần phải
được tiếp tục phát huy, vận dụng tư tưởng đó trong hoàn cảnh và
thời đại mới…