SỞ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO VĨNH PHÚC
TRƯỜNG THPT NGUYỄN THỊ GIANG
=====***=====
BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN
Tên sáng kiến: Tìm hiểu nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân
vật của một số tác giả trong chương trình Ngữ văn THPT.
Tác giả sáng kiến: Phan Thị Hạnh
Mã sáng kiến: 25.51…………..
Vĩnh Phúc, tháng 2 năm 2019
1
MỤC LỤC
LỜI GIỚI THIỆU..............................................................................................................................3
1. Lí do chọn đề tài...............................................................................................................................3
1.1. Cơ sở lí luận...................................................................................................................................3
1.2. Cơ sở thực tiễn..............................................................................................................................4
2. Tên sáng kiến: Tìm hiểu nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật của một số tác
giả trong chương trình Ngữ văn THPT......................................................................................4
3. Tác giả sáng kiến:............................................................................................................................4
4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến:.......................................................................................................5
5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến:.......................................................................................................5
6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử..............................................5
7. Mô tả bản chất của sáng kiến.....................................................................................................5
PHẦN 1. CÁC VẤN ĐỀ LÝ THUYẾT VỀ NHÂN VẬT VÀ NGHỆ THUẬT
MIÊU TẢ TÂM LÝ NHÂN VẬT.............................................................................................5
1.Nhân vật trong văn học và chức năng của nhân vật trong tác phẩm văn học........5
1.1.Khái niệm về nhân vật................................................................................................................5
1.2. Chức năng của nhân vật văn học..........................................................................................7
2. Thế giới tâm lí của con người và nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật trong tác
phẩm văn chương.................................................................................................................................8
2.1. Thế giới tâm lí của con người................................................................................................8
2.2. Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật trong tác phẩm văn chương............................9
PHẦN 2. NGHỆ THUẬT MIÊU TẢ TÂM LÝ NHÂN VẬT CỦA MỘT SỐ
TÁC GIẢ TIÊU BIỂU TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN THPT.......14
1.Tác phẩm “Hai đứa trẻ” – Thạch Lam..................................................................................14
2.Tác phẩm “ Chí Phèo” - Nam Cao.........................................................................................16
3. Tác phẩm Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài.................................................................................20
4. Tác phẩm “Vợ nhặt” – Kim Lân............................................................................................23
5. Tác phẩm “ Những đứa con trong gia đình” – Nguyễn Thi......................................26
PHẦN 3. HƯỚNG DẪN HỌC SINH GIẢI MỘT SỐ DẠNG ĐỀ LIÊN
QUAN ĐẾN NGHỆ THUẬT MIÊU TẢ TÂM LÝ NHÂN VẬT.........................29
2
................ 29
................................................................................................................... 29
..................................................... 29
................................................................................................................... 44
....................... 46
................................................................................... 46
................................................................... 46
A. Một số dạng đề liên quan đến nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật.
B. Hướng dẫn học sinh làm các dạng đề liên quan đến nghệ thuật miêu tả tâm lý
nhân vật.
Đề bài: Phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân
trong tác phẩm” Vợ chồng A Phủ” – Tô Hoài.
C.Những lưu ý khi làm các dạng đề liên quan đến nghệ thuật miêu tả tâm lý
nhân vật.
KẾT LUẬN.........................................................................................................................................45
ĐỀ XUẤT.............................................................................................................................................45
8. Những thông tin cần được bảo mật (nếu có): không....................................................46
9. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:.................................................................46
10. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến
theo ý kiến của tác giả và theo ý kiến của tổ chức, cá nhân đã tham gia áp dụng
sáng kiến lần đầu, kể cả áp dụng thử (nếu có) theo các nội dung
10.1. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng
kiến theo ý kiến của tác giả:
10.2. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng
kiến theo ý kiến của tổ chức, cá nhân:
11. Danh sách những tổ chức/cá nhân đã tham gia áp dụng thử hoặc áp dụng
sáng kiến lần đầu (nếu có)..............................................................................................................47
TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................................................................48
3
LỜI GIỚI THIỆU
1. Lí do chọn ðề tài
1.1. Cơ sở lí luận
Ðối tượng chung của văn học là cuộc đời nhưng trong đó con người luôn
giữ vị trí trung tâm. Những sự kiện kinh tế, chính trị, xã hội, những bức tranh
thiên nhiên, những lời bình luận...đều góp phần tạo nên sự phong phú, đa dạng
cho tác phẩm nhưng cái quyết định chất lượng tác phẩm văn học chính là việc
xây dựng nhân vật. Ðọc một tác phẩm, cái đọng lại sâu sắc nhất trong tâm hồn
người đọc thường là số phận, tình cảm, cảm xúc, suy tư của những con người
được nhà văn thể hiện. Vì vậy, Tô Hoài đã có lí khi cho rằng "Nhân vật là nơi
duy nhất tập trung hết thảy, giải quyết hết thảy trong một sáng tác"
Văn học phản ánh cuộc sống bằng hình tượng – đó là mệnh đề bất biến
trong cõi riêng của nghệ thuật ngôn từ. Người nghệ sĩ chiếm lĩnh, khám phá, phản
ánh thế giới khách quan bằng hệ thống hình tượng nghệ thuật, thông qua lăng
kính chủ quan của mình.
Nhân vật văn học không giống với các nhân vật thuộc các loại hình nghệ
thuật khác. Nhân vật văn học được thể hiện bằng chất liệu riêng là ngôn từ. Vì
vậy, nhân vật văn học đòi hỏi người đọc phải vận dụng trí tưởng tượng, liên
tưởng để dựng lại một con người hoàn chỉnh trong tất cả các mối quan hệ của nó.
Nghệ thuật xây dựng nhân vật là một trong những yếu tố then chốt tạo nên
thành công của tác phẩm văn chương. Trong việc khắc họa nhân vật, nghệ thuật
miêu tả tâm lí là thử thách hàng đầu đối với người cầm bút. Nghệ thuật miêu tả
tâm lí nhân vật là thước đo tài năng của người nghệ sĩ, là minh chứng cho sự
dụng công, dụng tâm của nhà văn. Qua tâm lí nhân vật, có thể nhận ra các
phương thức khắc họa nội tâm được vận dụng, kĩ thuật tổ chức điểm nhìn trần
thuật, khả năng làm chủ ngôn ngữ của người cầm bút… Đây cũng là thước đo
tấm lòng của tác giả đối với cuộc sống và con người. Tình đời, tình người của chủ
thể sáng tác càng nặng bao nhiêu thì sự am hiểu tâm lí con người của nhà văn
càng sâu sắc bấy nhiêu, sự phân tích, miêu tả tâm lí nhân vật càng thêm chân
thực, thuyết phục.
4
Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật của một số tác giả trong chương trình
Ngữ văn THPT có ý nghĩa quan trọng về mặt lí luận. Chuyên đề này góp phần
giúp người đọc nắm rõ hơn các vấn đề như: khái niệm, các phương thức, phương
tiện miêu tả tâm lí nhân vật, tâm và tài của người nghệ sĩ, đặc trưng phong cách
của tác giả qua nghệ thuật diễn tả nội tâm con người...Từ đó giúp học sinh giải 1
số dạng đề liên quan đến kiến thức lý luận văn học được trình bày trong phần một
của chuyên đề.
1.2. Cơ sở thực tiễn
Trong chương trình Ngữ văn THPT (bao gồm cả SGK Cơ bản và SGK Nâng
cao), có khá nhiều tác phẩm, đoạn trích liên quan đến nghệ thuật miêu tả tâm lí
nhân vật: Lớp 10 có các bài Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ, Nỗi sầu oán
của người cung nữ, Trao duyên, Nỗi thương mình. Lớp 11 có Hai đứa trẻ, Chí
Phèo. Lớp 12 có Vợ chồng A Phủ, Vợ nhặt, Những đứa con trong gia đình. Các
tác phẩm này chiếm tỉ lệ đáng kể trong tổng số các tác phẩm đọc hiểu có mặt
trong chương trình.
Trong các kì thi tốt nghiệp, Đại học, thi học sinh giỏi các cấp, chúng ta cũng
gặp các đề có liên quan đến nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật. Học sinh cần hiểu
sâu sắc vấn đề này mới có thể làm bài tốt được.
Từ thực tế trên, việc tìm hiểu nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật của một số
tâc giả trong chương trình là cần thiết. Và là chìa khóa giúp cho học sinh giải đề
thi THPT Quốc gia và các kì thi khác.
2. Tên sáng kiến:
Tìm hiểu nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật của một số tác giả trong chương
trình Ngữ văn THPT.
3. Tác giả sáng kiến:
- Họ và tên: Phan Thị Hạnh
- Ðịa chỉ : Trường THPT Nguyễn Thị Giang - Vĩnh Tường - Vĩnh Phúc.
- Số điện thoại: 0988599085
- Email:
[email protected]
5
4.Chủ đầu tư sáng tạo ra sáng kiến: Phan Thị Hạnh
5.Lĩnh vực áp dụng sáng kiến:
Ðề tài này thuộc lĩnh vực chuyên môn Ngữ văn, vận dụng những kiến thức
lý luận vãn học vào việc tìm hiểu nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật của một số
tác giả trong chương trình Ngữ văn THPT. Trên cơ sở đó giúp học sinh luyện giải
đề đối với một số tác phẩm được khai thác trong báo cáo. Nội dung nghiên cứu sẽ
được áp dụng thử nghiệm ở đối tượng học sinh lớp 11A2, 11A3, 11A4 và
12A2,12A3,12A4 của trường THPT Nguyễn Thị Giang.
6.Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử.
Ngày 25 tháng 12 năm 2018.
7.Mô tả bản chất của sáng kiến.
PHẦN 1
CÁC VẤN ĐỀ LÝ THUYẾT VỀ NHÂN VẬT VÀ NGHỆ THUẬT
MIÊU TẢ TÂM LÝ NHÂN VẬT
1.Nhân vật trong văn học và chức năng của nhân vật trong tác phẩm văn
học
1.1.Khái niệm về nhân vật.
Nhân vật văn học là con người được nhà văn miêu tả trong tác phẩm bằng
phương tiện văn học. Những con người này có thể được miêu tả kỹ hay sơ lược,
sinh động hay không rõ nét, xuất hiện một hay nhiều lần, thường xuyên hay từng
lúc, giữ vai trò quan trọng nhiều, ít hoặc không ảnh hưởng nhiều lắm đối với tác
phẩm.
Nhân vật văn học có thể là con người có tên (như Tấm Cám, Thúy Vân, Thúy
Kiều, Từ Hải, Kim Trọng...), có thể là những người không có tên (như thằng bán
tơ, viên quan, mụ quản gia...) hay có thể là một đại từ nhân xưng nào đó (như một
số nhân vật xưng tôi trong các truyện ngắn, tiểu thuyết hiện đại, như mình-ta
trong ca dao...). Khái niệm con người này cũng cần được hiểu một cách rộng rãi
trên 2 phương diện: số lượng: hầu hết các tác phẩm từ văn học dân gian đến văn
học hiện đại đều tập trung miêu tả số phận của con người. Về chất lượng: dù
6
nhà văn miêu tả thần linh, ma quỉ, đồ vật...nhưng lại gán cho nó những phẩm chất
của con người.
Trong nhiều trường hợp, khái niệm nhân vật được sử dụng một cách ẩn dụ
nhằm chỉ một hiện tượng nổi bật nào đó trong tác phẩm. Chẳng hạn, người ta
thường nói đến nhân dân như là một nhân vật trung tâm trong Chiến tranh và hòa
bình của L. Tônxtôi, ca cao là nhân vật chính trong Ðất dữ của G. Amađô, chiếc
quan tài là nhân vật trong tác phẩm Chiếc quan tài của Nguyễn Công Hoan...Tô
Hoài nhận xét về Chiếc quan tài: "Trong truyện ngắn Chiếc quan tài của Nguyễn
Công Hoan, nhân vật không phải là người mà là một chiếc quan tài. Nhưng chiếc
quan tài ấy chẳng phải là vô tri mà là một sự thê thảm, một bản án tố cáo chế độ
thảm khốc thời Pháp thuộc. Như vậy, chiếc quan tài cũng là một thứ nhân vật".
Tuy vậy, nhìn chung, nhân vật vẫn là hình tượng của con người trong tác phẩm
văn học.
Nhân vật văn học là một hiện tượng nghệ thuật có tính ước lệ, có những dấu
hiệu để nhận biết: tên gọi, những dấu hiệu về tiểu sử, nghề nghiệp, những đặc
điểm riêng...Những dấu hiệu đó thường được giới thiệu ngay từ đầu và thông
thường, sự phát triển về sau của nhân vật gắn bó mật thiết với những giới thiệu
ban đầu đó. Việc giới thiệu Thúy Vân, Thúy Kiều khác nhau dường như cũng báo
trước về số phận của mỗi người sau này:
"Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.
Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn
Làn thu thủy, nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh"
Hay việc giới thiệu Hoạn Thư:
"Ở ăn thì nết cũng hay,
Nói điều ràng buộc thì tay cũng già"
7
Gắn liền với những suy nghĩ, nói năng, hành động trong quá trình phát
triển về sau của nhân vật.
Nhân vật văn học không giống với các nhân vật thuộc các loại hình nghệ
thuật khác. Ở đây, nhân vật văn học được thể hiện bằng chất liệu riêng là ngôn từ.
Vì vậy, nhân vật văn học đòi hỏi người đọc phải vận dụng trí tưởng tượng, liên
tưởng để dựng lại một con người hoàn chỉnh trong tất cả các mối quan hệ của nó.
1.2. Chức năng của nhân vật văn học.
Nhân vật văn học có chức năng khái quát những tính cách, hiện thực cuộc
sống và thể hiện quan niệm của nhà văn về cuộc đời. Khi xây dựng nhân vật, nhà
văn có mục đích gắn liền nó với những vấn đề mà nhà văn muốn đề cập đến trong
tác phẩm. Vì vậy, tìm hiểu nhân vật trong tác phẩm, bên cạnh việc xác định
những nét tính cách của nó, cần nhận ra những vấn đề của hiện thực và quan niệm
của nhà văn mà nhân vật muốn thể hiện. Chẳng hạn, khi nhắc đến một nhân vật,
nhất là các nhân vật chính, người ta thường nghĩ đến các vấn đề gắn liền với nhân
vật đó. Gắn liền với Kiều là thân phận của người phụ nữ có tài sắc trong xã hội
cũ. Gắn liền với Kim Trọng là vấn đề tình yêu và ước mơ vươn tới hạnh phúc.
Gắn liền với Từ Hải là vấn đề đấu tranh để thực hiện khát vọng tự do, công
lí...Trong Chí Phèo của Nam Cao, nhân vật Chí Phèo thể hiện quá trình lưu manh
hóa của một bộ phận nông dân trong xã hội thực dân nửa phong kiên. Ðằng sau
nhiều nhân vật trong truyện cổ tích là vấn đề đấu tranh giữa thiện và ác, tốt và
xấu, giàu và nghèo, những ước mơ tốt đẹp của con người...
Do nhân vật có chức năng khái quát những tính cách, hiện thực cuộc sống
và thể hiện quan niệm của nhà văn về cuộc đời cho nên trong quá trình mô tả
nhân vật, nhà văn có quyền lựa chọn những chi tiết, yếu tố mà họ cho là cần thiết
bộc lộ được quan niệm của mình về con người và cuộc sống. Chính vì vậy, không
nên đồng nhất nhân vật văn học với con người trong cuộc đời. Khi phân tích,
nghiên cứu nhân vật, việc đối chiếu, so sánh có thể cần thiết để hiểu rõ thêm về
nhân vật, nhất là những nhân vật có nguyên mẫu ngoài cuộc đời (anh hùng Núp
trong Ðất nước đứng lên; Chị Sứ trong Hòn Ðất...) nhưng cũng cần
8
luôn luôn nhớ rằng nhân vật văn học là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo gắn liền
với ý đồ tư tưởng của nhà văn trong việc nêu lên những vấn đề của hiện thực
cuộc sống. Betông Brecht cho rằng: "Các nhân vật của tác phẩm nghệ thuật
không phải giản đơn là những bản dập của những con người sống mà là những
hình tượng được khắc họa phù hợp với ý đồ tư tưởng của tác giả".
2. Thế giới tâm lí của con người và nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật trong
tác phẩm văn chương.
2.1. Thế giới tâm lí của con người
Con người là một sinh thể có đời sống hết sức phong phú, phức tạp. Thế
giới tâm lí của con người là một tiểu vũ trụ với những điều bí ẩn, vi diệu, những
vận động, biến đổi hết sức tinh vi. Vì thế mà cổ nhân từng than thở “tri nhân tri
diện bất tri tâm” (Biết người chỉ là biết được diện mạo bên ngoài, không biết
được tâm tính bên trong). Nắm bắt được nội tâm con người không phải là chuyện
đơn giản, nhìn thấy được những điều vô hình trong đáy hồn nhân sinh không phải
là việc dễ làm.
Như trên đã nói thế giới tâm lí của con người bao gồm toàn bộ những hoạt
động, trạng thái trong đời sống tinh thần của mỗi cá thể. Những trạng thái ấy có
thể thuộc về lí trí (tư tưởng, suy nghĩ), có thể thuộc về tình cảm (cảm xúc, rung
động). Theo lí thuyết phân tâm học, những trạng thái tinh thần mà con người có
thể điều khiển được, nhận thức được thì thuộc về ý thức, nhưng có những trạng
thái tinh thần con người không điều khiển được, không nhận biết được thì lại
thuộc về cõi vô thức (chẳng hạn, giấc mơ là sản phẩm của vô thức); khoảng giao
thoa giữa ý thức và vô thức là tiềm thức.
Thế giới tâm lí của con người được sản sinh, phát triển cùng với sự lớn lên
của thể chất và chịu sự chi phối của hoàn cảnh, môi trường. Mỗi người mang một
cá tính riêng, đời sống nội tâm riêng. Trong cuộc sống, để nhận biết diễn biến tâm
trạng của một người, có thể nhìn vào sự biến đổi của sắc diện, hành động, cử chỉ,
ngôn ngữ của họ. Duy chỉ có những suy nghĩ, những lời độc thoại trong tâm trí
của người đối diện là chúng ta không thể biết được chính xác nó
9
đang diễn ra như thế nào. Chỉ với quyền năng của văn học, của ngòi bút mới có
thể giúp nhà văn thám hiểm các tầng sâu thăm thẳm trong tâm hồn con người.
2.2. Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật trong tác phẩm văn chương
2.2.1 Khái niệm
Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật là một phương diện quan trọng – nếu
không muốn nói là quan trọng nhất của nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tác
phẩm văn học. Hiểu một cách đơn giản, nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật là việc
nhà văn sử dụng các phương thức, phương tiện nghệ thuật hợp lí để phân tích,
diễn tả đời sống nội tâm của con người. Người cầm bút bằng sự am hiểu của
mình sẽ hình dung và “giải phẫu” các tầng bậc, các diễn biến trong thế giới nội
tâm của nhân vật, và dùng chất liệu ngôn từ để khắc họa, làm cho các diễn biến
ấy nổi hình nổi khối trên trang viết. Trang văn trở thành trang tâm hồn của đối
tượng được miêu tả. Nhà văn phải thông qua những lời văn mà làm cho người
đọc như được chứng kiến, như được nhìn thấy các cung bậc cảm xúc, suy tư của
nhân vật, kể cả những cung bậc sâu kín nhất. Đại văn hào L. Tônxtôi từng nói:
“Mục đích chính của nghệ thuật là nói lên sự thật về tâm hồn con người, nói lên
những điều bí ẩn không thể diễn tả bằng ngôn ngữ thông thường được”.
2.2.2. Các phương thức, phương tiện miêu tả tâm lí nhân vật
* Miêu tả qua ngoại hình, hành động, ngôn ngữ đối thoại, độc thoại Người
cầm bút có thể miêu tả qua ngoại hình, hành động, cử chỉ, dáng vẻ
bên ngoài. Những chuyển biến trong nội tâm con người thường được thể hiện qua
diện mạo bên ngoài. Đây là một điều tự nhiên của quy luật tâm lí ,trừ những
trường hợp con người cố dồn nén cảm xúc, cố tạo ra cái vẻ bề ngoài khác với cảm
xúc, suy tư bên trong, những trường hợp còn lại đều có một mối quan hệ chặt chẽ
giữa ngoại diện và nội tâm. Do vậy, người nghệ sĩ có thể qua việc miêu tả các yếu
tố bên ngoài để thể hiện đời sống bên trong của nhân vật.
Ngôn ngữ đối thoại cũng là một yếu tố thể hiện nội tâm. Những trạng thái
vui, buồn, hờn giận...trong tâm can có thể bộc lộ qua ngữ điệu, cách phát ngôn,
cách dùng ngôn từ khi nói. Qua việc miêu tả ngôn ngữ đối thoại của nhân vật, nhà
văn có thể làm hiển thị trạng thái đang diễn ra của nội tâm nhân vật.
10
Dòng độc thoại nội tâm của con người, như đã nói ở trên, là yếu tố không
thể nhìn thấy bằng đôi mắt sinh học. Chỉ có con mắt của người nghệ sĩ mới khám
phá được và chỉ có ngôn từ mới có thể hữu hình hóa những yếu tố vô hình ấy. Tất
cả những suy nghĩ, trăn trở, băn khoăn trong các miền khuất lấp của nội tâm,
những lời nói bên trong tâm hồn nhân vật được nhà văn diễn giải bằng câu chữ.
Độc thoại nội tâm, như chúng ta đã biết, là những lời nhân vật nói với chính mình
trong tâm tưởng. Cũng có trường hợp con người hướng đến một người khác vắng
mặt để thổ lộ, thực chất đây cũng là một trường hợp độc thoại. Miêu tả độc thoại
nội tâm là thủ pháp rất đắc dụng để diễn tả tâm lí nhân vật. Trong văn học Việt
Nam, ở thời kì trung đại, nhân vật chủ yếu chỉ được miêu tả tâm lí qua ngoại
hình, hành động, ít khi được miêu tả trực tiếp qua độc thoại nội tâm (tất nhiên là
cũng có một số ít cây bút rất tài hoa trong việc khắc họa nội tâm như Nguyễn Du,
Đặng Trần Côn, Nguyễn Gia Thiều…). Đến văn học hiện đại, với sự tiếp thu
nghệ thuật tự sự của văn học phương Tây, thủ pháp miêu tả trực tiếp nội tâm
nhân vật mới trở nên phổ biến.
Cũng cần phải nói thêm rằng: Trong việc miêu tả tâm lí nhân vật bằng độc
thoại, kỹ thuật “dòng ý thức” là thủ pháp cao nhất để mổ xẻ, chiếm lĩnh những
vùng sâu nhất trong thế giới tâm hồn, tâm linh của con người. Những tác phẩm
được viết theo kỹ thuật này nhìn chung “khó đọc”, khó tiếp nhận đối với độc giả
phổ thông, do vậy, chúng gần như không được đưa vào chương trình THPT. Kỹ
thuật này được sử dụng nhý một chìa khoá đắc lực để khai mở các miền u uẩn,
các vùng tiềm thức, các không gian tâm linh trong cõi hồn sâu thẳm của con
người - những yếu tố mà cái nhìn lý tính thuần tuý không thể nắm bắt và lí giải
được.Thuật ngữ “dòng ý thức” (stream of consciousness) vốn được nhà tâm lý
học người Mỹ William James (1842 - 1910) đưa ra trong cuốn Cơ sở tâm lý học
(The Principles of Psychology) xuất bản năm 1890. Ông cho rằng ý thức là một
dòng chảy, một dòng sông mà ở đó những lý tưởng, cảm xúc, liên tưởng bất chợt
luôn lấn át, đan bện vào nhau. Kỹ thuật dòng ý thức là mức tới hạn, là dạng cực
đoan của độc thoại nội tâm. Đây là thủ pháp được các nhà văn Việt Nam
11
thời kỳ đổi mới sử dụng khá phổ biến và thành công với mục đích khai thác chiều
sâu tâm lý nhân vật và kiến tạo cấu trúc nghệ thuật của tác phẩm.
* Miêu tả qua thủ pháp tả cảnh ngụ tình
Tả cảnh ngụ tình là thủ pháp quen thuộc để diễn tả nội tâm của con người.
Thiên nhiên, cảnh vật trong trường hợp này không chỉ tồn tại như những thực thể
khách quan của ngoại giới mà nó trở thành nơi in bóng tâm trạng nhân vật, được
cảm nhận thông qua cái nhìn chủ quan của con người. Vì nó được khúc xạ qua
lăng kính tâm trạng nên nó cũng mang cái buồn vui tùy theo tâm lí của chủ thể.
Người cầm bút thông qua việc miêu tả ngoại cảnh để khắc họa nội tâm. Thủ pháp
này mang hiệu quả nghệ thuật tinh tế: vừa kiến tạo được không gian nghệ thuật
cho tác phẩm, vừa kín đáo thể hiện tâm tư nhân vật.
Từ văn học trung đại, thủ pháp tả cảnh ngụ tình đã khá phổ biến. Nó
mang theo một quan niệm sâu sắc của triết học phương Đông: “thiên, địa, nhân
nhất thể” (trời, đất, người cùng một thể), vì thế mà “đồng thanh tương ứng”, giữa
con người và thiên nhiên có mối quan hệ chặt chẽ, tương giao. Do đó, “người
buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Trong văn học hiện đại, tả cảnh ngụ tình tiếp tục
được sử dụng, tiếp tục phát huy công năng nghệ thuật của nó trong việc diễn tả
tâm lí nhân vật.
*Kỹ thuật tổ chức điểm nhìn trần thuật và sử dụng các dạng thức ngôn
ngữ khác nhau trong nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật.
Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật có liên quan mật thiết với vấn đề tổ
chức điểm nhìn trần thuật. Có hai loại điểm nhìn chủ yếu: điểm nhìn của người kể
chuyện ở ngôi thứ ba giấu mặt (điểm nhìn bên ngoài) và điểm nhìn của nhân vật
(điểm nhìn bên trong). Khi miêu tả tâm lí nhân vật, nếu tác giả khắc họa những
biến đổi diện mạo, những hành động, cử chỉ, ngôn ngữ đối thoại của nhân vật thì
có nghĩa là người cầm bút đã sử dụng điểm nhìn bên ngoài – điểm nhìn của người
trần thuật ở ngôi thứ ba. Còn khi miêu tả độc thoại nội tâm của nhân vật, để nhân
vật tự giãi bày hoặc khi tả cảnh ngụ tình, miêu tả thiên nhiên qua cái nhìn của một
nhân vật trong tác phẩm thì tác giả đã sử dụng điểm nhìn bên trong. Nhà văn có
tài thường không sử dụng một loại điểm nhìn mà khai thác
12
thế mạnh của các loại điểm nhìn khác nhau; sử dụng, điều phối, chuyển dịch giữa
điểm nhìn bên ngoài và điểm nhìn bên trong một cách linh hoạt.
Tương ứng với điểm nhìn bên ngoài là ngôn ngữ gián tiếp. Chẳng hạn,
trong truyện ngắn Vợ nhặt, ngôn ngữ mà Kim Lân dùng để miêu tả diện mạo của
nhân vật Tràng là ngôn ngữ gián tiếp với điểm nhìn bên ngoài của người trần
thuật ngôi thứ ba: “Mặt hắn có một vẻ gì phớn phở khác thường. Hắn tủm tỉm
cười nụ một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh”.
Với điểm nhìn bên trong, khi miêu tả độc thoại nội tâm, người cầm bút có
thể dùng ngôn ngữ trực tiếp và ngôn ngữ nửa trực tiếp.
Ngôn ngữ trực tiếp là trích dẫn nguyên văn, trực tiếp lời độc thoại của nhân
vật. Chẳng hạn, trong tác phẩm Vợ nhặt, khi miêu tả độc thoại nội tâm của Tràng,
tác giả viết: “Mới đầu anh Tràng cũng chợn, nghĩ: thóc gạo này đến cái thân
mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng”.
Ngôn ngữ nửa trực tiếp cũng là trường hợp miêu tả độc thoại nội tâm của
nhân vật nhưng điểm đặc biệt là ở chỗ: điểm nhìn, giọng điệu của người kể
chuyện như hòa vào làm một với điểm nhìn, giọng điệu của nhân vật. Ví dụ,
trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ, khi miêu tả sự trỗi dậy của niềm khát yêu,
khát sống trong lòng Mị vào đêm tình mùa xuân, Tô Hoài viết: “Mị trẻ lắm. Mị
vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi ngày Tết”.
Ở đây, ngôn ngữ của người kể chuyện ở ngôi thứ ba đã hòa vào ngôn ngữ của
nhân vật, điểm nhìn bên ngoài giao hòa với điểm nhìn bên trong. Hay nói cách
khác, đây là trường hợp tác giả dùng lời nửa trực tiếp để diễn tả tâm trạng nhân
vật. Ngôn ngữ nửa trực tiếp tạo nên một hiệu ứng “đa thanh” trong nghệ thuật tự
sự, hai loại giọng điệu (của người trần thuật và của nhân vật) tuy thống nhất làm
một nhưng âm sắc riêng của từng giọng vẫn tồn tại chứ không mất đi.
Mỗi loại câu phân theo chức năng ngữ pháp (câu trần thuật, nghi vấn, cầu
khiến, cảm thán) đều có khả năng diễn tả tâm lí con người. Việc tạo sinh và sử
dụng đúng lúc, đúng chỗ các loại câu này có hiệu quả không nhỏ trong việc biểu
đạt tâm trạng con người.
13
Khi người cầm bút miêu tả tâm lí nhân vật, các phương thức, phương tiện
nghệ thuật gắn bó chặt chẽ, hữu cơ với nhau như những huyết mạch trong một
sinh thể, yếu tố này dựa vào yếu tố kia để tồn tại. Tuy nhiên, cũng cần thấy được
vai trò độc lập và tính năng riêng của từng yếu tố khi tìm hiểu nghệ thuật miêu tả
tâm lí nhân vật của một nhà văn nào đó.
2.2.3. Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật trong mối quan hệ với cái tâm,
cái tài và phong cách của người nghệ sĩ ngôn từ.
Để có thể khắc họa, diễn tả nội tâm con người một cách chân thực, sâu sắc,
cảm động, người cầm bút phải có tâm và có tài – những điều làm nên một nhà
văn chân chính. Chủ thể sáng tác phải có tâm hồn nhạy cảm, tinh tế, nặng lòng
với con người và cuộc đời thì mới có thể nhìn sâu vào thế giới nội tâm của đối
tượng miêu tả; thấu hiểu, đồng cảm với đối tượng. Những trang thơ “như có máu
nhỏ ở đầu ngọn bút, nước mắt thấm trên tờ giấy” khi miêu tả tâm trạng của Thúy
Kiều phải được khởi sinh từ “con mắt trông thấu cả sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt
cả nghìn đời” của đại thi hào Nguyễn Du. Nếu không có tấm lòng nhân đạo để
thấu cảm những tâm tư sâu kín, những nỗi niềm u uẩn của đồng loại thì người
nghệ sĩ không thể viết được những trang văn miêu tả tâm lí chân thực, xúc động.
Và nhà văn là người cho máu!
Tuy nhiên, cái tâm chỉ là một yếu tố trong hành trình sáng tác của người
nghệ sĩ. Nhà văn sẽ không thể miêu tả tâm lí nhân vật một cách sống động, sâu
sắc nếu không có tài năng thực sự. Đó là tài năng trong việc phân tích các tầng
sâu tâm trạng, tài năng sử dụng ngôn từ để diễn tả những cung bậc nội tâm đa
dạng, phức tạp, không dễ nhận biết bằng sự quan sát bên ngoài. Nếu chỉ có tấm
lòng nhân đạo, biết thấu hiểu, cảm thông với nỗi niềm của con người mà không
biết dùng ngôn từ như thế nào để phản ánh cảm xúc, suy tư của nhân vật thì
người cầm bút chẳng thể trở thành một nhà văn thực sự.
Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật cũng là một phương diện góp phần làm
nên phong cách của người nghệ sĩ. Định nghĩa một cách hàn lâm thì “phong cách
nghệ thuật là một phạm trù thẩm mĩ, chỉ sự thống nhất tương đối ổn định của hệ
thống hình tượng, của các phương tiện biểu hiện nghệ thuật, nói lên cái
14
nhìn độc đáo trong sáng tác của một nhà văn” (Theo Từ điển thuật ngữ văn học).
Nói một cách đơn giản hơn thì phong cách nghệ thuật là một cụm từ được dùng
để chỉ những nét độc đáo, riêng biệt nổi lên trong hệ thống tác phẩm của một nhà
thơ, nhà văn, khiến cho người cầm bút ấy không thể lẫn vào những chủ thể sáng
tác khác. Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật là một yếu tố tạo nên cái riêng trong
sáng tác của các nhà văn khác nhau, giúp nhà văn thể hiện dấu ấn riêng giữa biển
khơi văn chương rộng lớn. Có nhà văn thể hiện biệt tài trong việc miêu tả những
quá trình tâm lí phức tạp, những xung đột nội tâm giằng xé; nhưng cũng có nhà
văn lại rất có tài trong việc diễn tả các trạng thái cảm xúc nhẹ nhàng, các chuyển
động tinh tế trong đáy hồn nhân vật; có nhà văn sử dụng thứ ngôn ngữ góc cạnh,
giàu tính khẩu ngữ để tái hiện diễn biến nội tâm, nhưng cũng có người lại dùng
ngôn từ giàu chất thơ, chất trữ tình để ghi lại những sợi tơ của lòng người...
Từ những điều đã trình bày ở trên, có thể thấy, nghệ thuật miêu tả tâm lí
nhân vật là một lĩnh vực khá phức tạp, với những vấn đề “bếp núc” cần được
minh giải. Trong phạm vi hiểu biết của mình, tôi đã cố gắng làm rõ những vấn đề
lí thuyết của đề tài nghiên cứu theo quan điểm cá nhân, với hi vọng mang đến cho
người đọc những công cụ, những chìa khóa cần thiết khi tìm hiểu, giải mã nghệ
thuật miêu tả tâm lí của các cây bút trong chương trình Ngữ văn THPT.
PHẦN 2
NGHỆ THUẬT MIÊU TẢ TÂM LÝ NHÂN VẬT CỦA MỘT SỐ TÁC GIẢ
TIÊU BIỂU TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN THPT
1.Tác phẩm “Hai đứa trẻ” – Thạch Lam
Truyện ngắn Hai đứa trẻ hầu như không có cốt truyện, tác giả chủ yếu
miêu tả không gian phố huyện nghèo và tâm trạng của nhân vật Liên từ chiều tàn
đến đêm khuya. Ngòi bút Thạch Lam thể hiện sở trường trong việc khắc họa
những trạng thái cảm xúc mong manh, mơ hồ, những biến thái tinh tế trong hồn
người. Các sợi tơ lòng của nhân vật Liên đã được tác giả nắm bắt và dệt nên một
tấm thảm tâm trạng rất nhẹ nhàng.
15
Trước cảnh chiều tàn đang phủ bóng lên phố huyện, “Liên ngồi yên lặng
bên mấy quả thuốc sơn đen; đôi mắt chị bóng tối ngập đầy dần và cái buồn của
buổi chiều quê thấm thía vào tâm hồn ngây thơ của chị. Liên không hiểu sao
nhưng chị thấy lòng buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn”. Tâm hồn
rất mực nhạy cảm của Liên đã xuất hiện một nỗi buồn vô thức – nỗi buồn được
khơi lên từ ngoại giới và chủ thể không lí giải được nguyên nhân.
Trước cảnh chợ tàn, Liên nhận thấy “một mùi âm ẩm bốc lên, hơi nóng của
ban ngày lẫn với mùi cát bụi quen thuộc quá” khiến Liên tưởng là “mùi riêng của
đất,của quê hương”. Nhìn lũ trẻ con nhà nghèo đang đi lại nhặt nhạnh bất cứ cái
gì còn có thể tận dụng được từ những thứ rác rưởi, cô bé “động lòng thương”.
Thạch Lam – rất giản dị - đã đưa ống kính nghệ thuật của mình soi vào những
ngõ ngách tâm hồn của nhân vật, diễn tả những cảm giác, cảm xúc “rất người”
của nhân vật.
Tâm trạng của Liên trong Hai đứa trẻ nhìn chung được miêu tả theo dòng
thời gian tuyến tính, theo sự vận động tuần tự của giờ khắc. Khi bóng tối đặc
quánh ngự trị phố huyện, nhà văn phát hiện niềm khao khát ánh sáng của nhân
vật, được thể hiện qua một hành động mang đậm dấu ấn tâm lí trẻ thơ: “An và
Liên lặng ngước mắt lên nhìn các vì sao để tìm sông Ngân Hà và con vịt theo sau
ông Thần Nông”. Niềm khao khát ánh sáng, khao khát vượt ra khỏi không gian tù
túng, tăm tối, mỏi mòn được thể hiện rõ nét nhất qua tâm trạng của Liên khi chờ
tàu và ngắm nhìn đoàn tàu chạy qua phố huyện. Liên đã chờ tàu, cảm nhận về nó
bằng thính giác, thị giác và bằng cả tâm hồn. Thạch Lam rất chú trọng miêu tả nội
tâm của nhân vật qua những cử chỉ, hành động, cảm giác: “Liên trông thấy ngọn
lửa xanh biếc, sát mặt đất như ma trơi”, “nghe thấy tiếng dồn dập, tiếng xe rít
mạnh vào ghi”, “Liên dắt em đứng dậy để nhìn đoàn xe vụt qua”, “Liên chỉ
thoáng trông thấy những toa hạng trên sang trọng”, “ hai chị em còn nhìn theo
cái chấm nhỏ của chiếc đèn xanh treo trên toa sau cùng, xa xa mãi rồi khuất sau
rặng tre”…Qua đó, người đọc thấy được rằng: Liên đã đợi tàu, chiêm ngưỡng tàu
bằng tất cả sự háo hức, say mê rồi tiếc nuối, bâng khuâng, hụt hẫng khi tàu đi.
Con tàu đánh thức hoài niệm của Liên về Hà Nội –
16
một thế giới “sáng rực, vui vẻ và huyên náo”. Hà Nội là một vùng tiềm thức được
tâm hồn Liên cất giữ, và tâm hồn cô bé vẫn âm thầm tìm về trong niềm hoài nhớ
mênh mang…
Dễ nhận thấy là khi miêu tả tâm lí của nhân vật Liên, Thạch Lam đã sử
dụng kết hợp điểm nhìn bên ngoài và điểm nhìn bên trong một cách nhuần
nhuyễn. Có lúc tác giả miêu tả Liên qua điểm nhìn bên ngoài của người kể
chuyện ở ngôi thứ ba. Có lúc tác giả lại nương theo điểm nhìn của Liên, giọng
điệu của Liên qua hình thức lời nửa trực tiếp: “Chuyến tàu đêm nay không đông
như mọi khi, thưa vắng người và hình như kém sáng hơn. Nhưng họ ở Hà Nội về!
Liên lặng theo mơ tưởng”.
Ngôn ngữ miêu tả tâm lí nhân vật của Thạch Lam giàu chất thơ, chất trữ
tình. Nhịp văn chậm rãi, giọng văn nhỏ nhẹ, như thủ thỉ tâm tình.
Khi khắc họa tâm trạng nhân vật, Thạch Lam xây dựng được những chi tiết
đắt giá về hành động, cảm xúc của Liên như đã phân tích ở trên. Chẳng hạn, chi
tiết Liên “không hiểu sao” trước nỗi buồn man mác đang xâm chiếm tâm hồn
mình; chi tiết Liên tìm sông Ngân Hà; chi tiết đợi tàu…
Qua nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật Liên, chúng ta thấy được cả tài
năng, phong cách và cái tâm của Thạch Lam. Biệt tài của Thạch Lam là bắt
những miền sâu kín, mong manh trong lòng người phải lên tiếng, những cảm
giác, cảm xúc tinh vi phải hiện lộ rõ ràng trên trang văn. Đó cũng là điều góp
phần làm nên phong cách nghệ thuật của Thạch Lam. Qua đó nhận ra cái tâm,
tấm lòng nhân đạo, không khó để nhận ra sự cảm thông của nhà văn đối với kiếp
sống mỏi mòn, tù hãm; sự trân trọng, nâng niu vẻ đẹp của tâm hồn trẻ thơ; đề cao
khát vọng hướng về những điều tốt đẹp, tươi sáng của con người trong hoàn cảnh
tối tăm.
2.Tác phẩm “ Chí Phèo” - Nam Cao
Truyện ngắn Chí Phèo ngay từ khi ra đời đã tạo tiếng vang lớn trên văn
đàn đương thời bởi tính mới mẻ của nó so với các tác phẩm cùng đề tài, cùng thể
loại. Kiệt tác này góp phần đánh dấu sự phát triển vượt bậc của nền văn xuôi Việt
Nam đầu thế kỉ XX trong tiến trình hiện đại hóa. Sự hiện đại trong kỹ thuật
17
tự sự nói chung, nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật nói riêng trong tác phẩm này
khiến người đọc ngày nay vẫn phải ngỡ ngàng. Nam Cao thực sự là một trong
những cây bút hàng đầu của nghệ thuật phân tích, diễn tả tâm lí nhân vật, ngòi bút
của ông đạt đến trình độ rất cao ở phương diện này.
Trong truyện ngắn Chí Phèo, Nam Cao đã chứng tỏ ông là người có khả
năng nắm bắt, miêu tả những quá trình tâm lí phức tạp, đa tầng, từ những cảm
giác, cảm xúc mơ hồ đến các xung đột nội tâm giằng xé, các phản ứng tâm lí
quyết liệt, đầy mâu thuẫn. Ở kiệt tác Chí Phèo (đoạn trích trong SGK),nhà văn
bậc thầy Nam Cao đã dẫn người đọc đi khám phá thế giới nội tâm của “con quỷ
dữ làng Vũ Đại”, đáng chú ý nhất là tâm trạng Chí Phèo từ sau khi gặp thị Nở đến
khi hắn tự kết liễu cuộc đời mình.
Cuộc gặp gỡ với thị Nở đã tạo ra “chấn động” tâm lí rất lớn trong con
người Chí Phèo. Kẻ từng bán linh hồn cho quỷ nay đã tìm về với bản tính lương
thiện. Tình người của người đàn bà xấu nhất thế gian đã làm hồi sinh tính người
của một kẻ từng đắm mình trong tội ác.
Sau cái đêm ở bên thị Nở, tâm hồn bị tha hóa của Chí Phèo đã sống lại
những cảm xúc, cảm giác mà bao lâu hắn từng lãng quên. Nam Cao dùng những
ngôn từ không thể tinh tế hơn để diễn tả cảm giác vừa mơ hồ, vừa thực sự hiện
hữu trong tâm hồn một kẻ mới được kéo ra khỏi những cơn say vô tận: “Mặt trời
chắc đã lên cao, và nắng bên ngoài chắc là rực rỡ. Cứ nghe chim ríu rít bên
ngoài đủ biết”, “hắn bâng khuâng”, “miệng đắng, lòng mơ hồ buồn”, “tiếng chim
hót ngoài kia vui vẻ quá!”, “Chao ôi là buồn”, “nao nao buồn”, “buồn thay cho
đời!”. Chỉ riêng cảm giác buồn của Chí Phèo mà có bao nhiêu cung bậc được
Nam Cao phân tích, diễn tả không lặp lại. Điều đó đủ biết bút lực của nhà văn
này thâm hậu đến mức nào. Nam Cao vô cùng am hiểu tâm lí con người và sự
diễn tả của ông rất sắc sảo. Chí Phèo nhớ về quá khứ: “hình như có một thời hắn
đã ao ước có một gia đình nho nhỏ”; u buồn trước hiện tại: “hắn thấy hắn già mà
vẫn còn cô độc”; lo sợ trước tương lai: “Chí Phèo hình như đã trông trước thấy
tuổi già của hắn, đói rét và ốm đau, và cô độc, cái này còn đáng sợ hơn đói rét
và ốm đau”.
18
Khi Chí Phèo nhận được bát cháo hành của Thị Nở, ngòi bút Nam Cao đã
ghi lại một cách thần tình bao cảm xúc, suy tư của nhân vật: “ngạc nhiên”, hết
ngạc nhiên thì “hắn thấy mắt hình như ươn ướt” – xúc động, “bâng khuâng”,
“thấy vừa vui vừa buồn. Và một cái gì nữa giống như là ăn năn. “Trời ơi cháo
mới thơm làm sao!”. Chí Phèo khát khao tìm về nẻo thiện của cuộc đời. Nam Cao
tỏ rõ thế mạnh của mình trong khả năng phân tích, diễn tả các trạng thái nội tâm
phức tạp, các phản ứng tâm lí dồn dập: “Xưa nay hắn chỉ sống bằng giật cướp và
dọa nạt. Nếu không còn sức mà giật cướp, dọa nạt nữa thì sao? Đã đành, hắn chỉ
mạnh vì liều. Nhưng hắn mơ hồ thấy rằng sẽ có một lúc mà người ta không thể
liều được nữa. Bấy giờ mới nguy! Trời ơi! Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm
hòa với mọi người biết bao! Thị Nở sẽ mở đường cho hắn”.
Khi Chí Phèo bị Thị Nở cự tuyệt, Nam Cao cũng miêu tả tâm lí nhân vật
rất thành công. Đó là một quá trình tâm lí với rất nhiều cung bậc đan xen, chuyển
hóa, chồng chất lên nhau, những xung đột, mâu thuẫn giằng xé, quyết liệt. Nam
Cao thực sự kì công khi diễn tả chuỗi phản ứng tâm lí nhân vật bằng những ngôn
từ sinh động, chính xác. Nghe những lời nói của thị Nở, đầu tiên “hắn nghĩ ngợi
một tí rồi hình như hiểu, hắn bỗng nhiên ngẩn người. Thoáng một cái, hắn lại
như hít thấy hơi cháo hành. Hắn cứ ngồi ngẩn mặt, không nói gì”, “hắn sửng sốt,
đứng lên gọi lại”. Ý nghĩ trả thù xuất hiện: “Hắn tự phải đến nhà con đĩ Nở kia.
Đến để đâm chết cả nhà nó…Nếu không đâm được, lúc ấy hãy đập đầu ra kêu
làng. Muốn đập đầu, phải uống thật say”. Nhưng Chí Phèo càng uống lại càng
tỉnh ra, hơi men không đủ nồng để át đi vị đắng của nỗi đau, nỗi hận đang lên đến
tột cùng. “Tỉnh ra, chao ôi, buồn! Hơi rượu không sặc sụa, hắn cứ thoang thoảng
thấy hơi cháo hành. Hắn ôm mặt khóc rưng rức”.
Nếu ở những phần trước, Nam Cao xoáy vào những dòng độc thoại nội
tâm của nhân vật thì đến tình tiết Chí Phèo đối mặt với bá Kiến ở cuối truyện, tác
giả xây dựng cuộc đối thoại nảy lửa giữa hai nhân vật, qua đó làm nổi rõ tâm
trạng của Chí. Cùng những lời đối thoại là diện mạo, hành động của nhân vật –
những yếu tố cũng có vai trò diễn tả thế giới bên trong của con người: “Hắn trợn
mắt, chỉ vào mặt cụ”, “hắn toan làm dữ”, “hắn vênh cái mặt lên”, “hắn dõng