Trường nghĩa trong truyện nguyễn nhật ánh
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
ĐINH VŨ HẢI ANH
TRƯỜNG NGHĨA TRONG TRUYỆN
NGUYỄN NHẬT ÁNH
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Hà Nội - 2017
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
ĐINH VŨ HẢI ANH
TRƯỜNG NGHĨA TRONG TRUYỆN
NGUYỄN NHẬT ÁNH
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Người hướng dẫn khoa học:
ThS. NGUYỄN THỊ HIỀN
HÀ NỘI - 2017
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến quý Thầy Cô, những người đã tận
tình giảng dạy, động viên, giúp đỡ, nhận xét và đóng góp ý kiến cho tôi trong
quá trình học tập cũng như khi thực hiện khóa luận.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Thạc sĩ Nguyễn Thị Hiền, người
đã tận tình hướng dẫn, hết lòng giúp đỡ để tôi hoàn thành tốt khóa luận này.
Xin chân thành cảm ơn tới gia đình, bạn bè đã tạo điều kiện, giúp đỡ,
khuyến khích, động viên tôi trong quá trình thực hiện khóa luận này.
Khóa luận không tránh khỏi những thiếu sót, chúng tôi rất mong nhận
được sự đóng góp, giúp đỡ của quý Thầy Cô và các bạn.
Hà Nội, ngày tháng năm 2017
Sinh viên
Đinh Vũ Hải Anh
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự
hướng dẫn của Thạc sĩ Nguyễn Thị Hiền. Các luận cứ nêu trong khóa luận là
xác thực. Những kết luận khoa học của khóa luận chưa từng được ai công bố
trong bất kỳ công trình nào khác. Nếu sai, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, ngày tháng năm 2017
Sinh viên
Đinh Vũ Hải Anh
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................ 3
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu................................................................. 4
5. Phương pháp nghiên cứu............................................................................... 4
6. Đóng góp của khóa luận................................................................................ 5
7. Cấu trúc khóa luận ........................................................................................ 5
PHẦN NỘI DUNG ........................................................................................... 6
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN ........................................................................ 6
1.1. Trường nghĩa .............................................................................................. 6
1.1.1. Khái niệm trường nghĩa ...................................................................... 6
1.1.2. Phân loại trường nghĩa ........................................................................ 7
1.2. Mối quan hệ giữa trường nghĩa với ngôn ngữ văn chương ..................... 10
1.2.1. Trường biểu vật và ngôn ngữ văn chương ........................................ 10
1.2.2. Trường biểu niệm và ngôn ngữ văn chương ..................................... 12
1.2.3. Trường nghĩa tuyến tính và ngôn ngữ văn chương........................... 13
1.2.4. Trường liên tưởng và ngôn ngữ văn chương .................................... 13
1.3. Đặc điểm ngôn ngữ của truyện Nguyễn Nhật Ánh .................................. 14
Tiểu kết chương 1............................................................................................ 15
CHƯƠNG 2..................................................................................................... 16
MỘT SỐ TRƯỜNG NGHĨA TRONG TRUYỆN NGUYỄN NHẬT ÁNH .. 16
2.1. Kết quả khảo sát, thống kê ....................................................................... 16
2.2. Phân loại trường nghĩa trong truyện Nguyễn Nhật Ánh .......................... 25
2.2.1. Trường nghĩa con người.................................................................... 25
2.2.2. Trường nghĩa loài vật ........................................................................ 39
2.2.3. Trường nghĩa đồ vật .......................................................................... 41
2.2.4. Trường nghĩa “trò chơi trẻ thơ” ........................................................ 44
Tiểu kết chương 2............................................................................................ 47
PHẦN KẾT LUẬN ......................................................................................... 48
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................. 1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Những năm gần đây, tiếp cận văn chương từ góc độ ngôn ngữ là vấn đề
thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Trong đó, từ và sự vận động
của từ trong trường nghĩa đang là điểm trọng được chú ý nhiều. Khi tiếp cận
một tác phẩm văn chương, trước hết là tiếp cận về mặt câu chữ bởi lẽ ngôn
ngữ văn chương bao giờ cũng là ngôn ngữ nghệ thuật, là sự sáng tạo có mục
đích của tác giả. Ngôn ngữ văn chương không chỉ chú trọng đến cảm xúc, đến
tình cảm mà còn chú ý đến tính hệ thống và tính chính xác. Từ ngữ được sử
dụng trong văn chương một cách có chủ ý và thống nhất sẽ làm tăng thêm vẻ
tinh tế đó. Việc xác lập nghiên cứu các trường nghĩa đã tạo điều kiện thuận lợi
cho việc nghiên cứu nghĩa của các đơn vị ngôn ngữ nói chung và của từ nói
riêng, đồng thời cũng giúp ích rất nhiều trong việc lựa chọn, kết hợp từ để tạo
lời, phục vụ mục đích giao tiếp.
1.2. Nguyễn Nhật Ánh từ lâu đã được những độc giả nhỏ tuổi nhắc đến với
bao tình cảm trìu mến. Cây bút tài năng xứ Quảng sinh năm 1955 này đã trở
thành một hiện tượng văn học đặc biệt, bởi không chỉ trẻ em tìm thấy tuổi thơ
sinh động, hồn nhiên, chân thật của chính mình mà ngay cả người lớn khi đọc
tác phẩm của ông còn nhận được những “tấm vé” về lại tuổi thơ. Truyện
Nguyễn Nhật Ánh còn hấp dẫn người đọc bởi các trường nghĩa mang đậm
chất trẻ thơ hồn nhiên, trong sáng. Bằng ngòi bút đầy say mê của mình,
Nguyễn Nhật Ánh đã đóng góp không nhỏ cho nền văn học thiếu nhi Việt
Nam sau 1975.
Nguyễn Nhật Ánh là nhà văn có khối lượng sáng tác khá lớn và có sức
ảnh hưởng. Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ và Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh
có thể nói là hai tác phẩm tiêu biểu cho truyện viết về thiếu nhi của ông và đã
được độc giả trong và ngoài nưới đón nhận một cách nồng nhiệt. Với giọng
1
văn dí dỏm, Nguyễn Nhật Ánh đã làm cho độc giả như được hóa thân vào
nhân vật truyện, đắm mình trong kí ức tuổi thơ.
Xuất phát từ những lí do trên cùng với niềm yêu thích truyện Nguyễn
Nhật Ánh, chúng tôi chọn đề tài Trường nghĩa trong truyện Nguyễn Nhật
Ánh. Thực hiện đề tài này chúng tôi mong muốn góp phần làm rõ một số
trường nghĩa trong ngôn ngữ nói chung và truyện Nguyễn Nhật Ánh nói
riêng.
2. Lịch sử vấn đề
Lí thuyết về trường nghĩa đã được các nhà ngôn ngữ thế giới quan tâm từ
rất sớm, có thể kể đến các tên tuổi như: M.Pokrovxkij, J.Trier,
L.Weisgerbe,… Ở Việt Nam, tác giả Đỗ Hữu Châu, Nguyễn Đức Tồn, Bùi
Minh Toán… là những người sớm nghiên cứu và có nhiều đóng góp về lí
thuyết trường nghĩa.
Năm 1973, Đỗ Hữu Châu có công trình Trường từ vựng và hiện tượng
đồng nghĩa, trái nghĩa. Trong công trình này, Đỗ Hữu Châu nêu các hiện
tượng đồng nghĩa, trái nghĩa của từ thông qua việc phân tích các trường từ
vựng.
Trên tạp chí Ngôn ngữ số 3 năm 1974, Đỗ Hữu Châu có bài viết Trường
từ vựng ngữ nghĩa và việc dùng từ ngữ trong tác phẩm nghệ thuật.
Năm 1975, Đỗ Hữu Châu tiếp tục trình bày cụ thể về trường và việc
nghiên cứu từ vựng.
Các nhà nghiên cứu đã áp dụng lí thuyêt trường nghĩa để nghiên cứu tiếng
Việt. Có thể kể đến một số công trình tiêu biểu như:
Luận án PTS Trường từ vựng tên gọi bộ phận cơ thể người của Nguyễn
Đức Tồn năm 1988 đã nêu khái niệm trường tự vựng- ngữ nghĩa khá hoàn
thiện.
2
Luận án PTS Đặc điểm trường từ vựng- ngữ nghĩa tên gọi động vật (trên
tư liệu đối chiếu tiếng Việt với tiếng Nga) của Nguyễn Thúy Khanh năm
1996.
Nghiên cứu về trường nghĩa trong các tác phẩm văn học nghệ thuật có
một số công trình như:
Luận văn thạc sĩ Hiện tượng chuyển trường nghĩa trong thơ Đồng Đức
Bốn của Nguyễn Thị Hiền năm 2013, cũng đã đi vào nghiên cứu việc sử dụng
trường nghĩa và di chuyển trường nghĩa từ vựng, từ đó lí giải về giá trị của
thơ Đồng Đúc Bốn ở phương diện ngôn ngữ.
Khóa luận tốt nghiệp Khảo sát trường nghĩa trong tác phẩm viết về người
nông dân của Nam Cao – Nguyễn Thị Thoa, năm 2006.
Khóa luận tốt nghiệp Khảo sát trường nghĩa trong tác phẩm Nguyễn Huy
Thiệp – Nguyễn Thị Hồng, năm 2010.
Như vậy, nghiên cứu về trường nghĩa nói chung đã thu hút được sự chú ý
của nhiều nhà nghiên cứu ngôn ngữ. Vấn đề trường nghĩa mà cụ thể hơn là
các trường nghĩa trong truyện Nguyễn Nhật Ánh vẫn chưa có công trình hay
bài viết nào đề cập đến một cách hệ thống.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của khóa luận là làm rõ hơn bản chất của trường nghĩa nói
chung và trường nghĩa trong tác phẩm văn chương nói riêng, cụ thể ở đây là
các trường nghĩa trong truyện Nguyễn Nhật Ánh. Qua đó, khóa luận cũng
góp thêm sự lí giải về giá trị nội dung và nghệ thuật của truyện Nguyễn Nhật
Ánh từ góc nhìn ngôn ngữ học.
3
Việc nghiên cứu một số trường nghĩa của khóa luận còn nhằm phục vụ
cho thực tế học tập và giảng dạy tác phẩm văn chương nghệ thuật trong nhà
trường.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, khóa luận đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu
sau:
- Xác định cơ sở lí luận của đề tài.
- Khảo sát, thống kê và phân loại ngữ liệu.
- Phân tích và miêu tả một số trường nghĩa trong truyện Nguyễn Nhật
Ánh
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng của đề tài này là một số trường nghĩa trong truyện Nguyễn
Nhật Ánh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Chúng tôi tập trung khảo sát một số trường nghĩa trong hai truyện Tôi
thấy hoa vàng trên cỏ xanh và Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ của Nguyễn
Nhật Ánh.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình triển khai đề tài, chúng tôi sử dụng các phương pháp
và thủ pháp sau:
- Phương pháp miêu tả để miêu tả đặc điểm của các từ thuộc một số
trường nghĩa trong truyện Nguyễn Nhật Ánh.
- Phương pháp phân tích để làm rõ giá trị biểu hiện của các từ thuộc một
số trường nghĩa trong truyện Nguyễn Nhật Ánh.
4
- Thủ pháp thống kê dùng để tổng hợp ngữ liệu, qua đó nắm được một
cách khái quát về một số trường nghĩa trong truyện Nguyễn Nhật Ánh.
- Thủ pháp phân loại dùng để phân loại ngữ liệu và xác định các đặc
điểm của từ thuộc một số trường nghĩa trong truyện Nguyễn Nhật Ánh.
6. Đóng góp của khóa luận
Về mặt lí luận, khóa luận làm rõ lí thuyết về trường nghĩa ứng dụng
trong tác phẩm văn chương, làm rõ vai trò của việc sử dụng từ ngữ thuộc một
số trường nghĩa mang đậm chất trẻ thơ trong truyện Nguyễn Nhật Ánh. Từ
đó, khóa luận hướng tới khẳng định những đóng góp của nhà văn về ngôn ngữ
nghệ thuật.
Về mặt thực tiễn, khóa luận giúp cho người đọc có một cái nhìn cụ thể
hơn, đa chiều hơn về truyện của Nguyễn Nhật Ánh, cụ thể ở đây là cái nhìn từ
góc độ ngôn ngữ học.
7. Cấu trúc khóa luận
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, khóa
luận được cấu trúc làm 2 chương:
- Chương 1: Cơ sở lí luận
- Chương 2: Một số trường nghĩa trong truyện Nguyễn Nhật Ánh
5
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1. Trường nghĩa
1.1.1. Khái niệm trường nghĩa
Ngôn ngữ là một hệ thống điển hình bao gồm tổng thể các yếu tố và
các yếu tố đó có mối quan hệ chặt chẽ với nhau theo nhiều kiểu dạng khác
nhau. Nằm trong hệ thống ngôn ngữ ấy, các đơn vị từ vựng cũng không tồn
tại biệt lập, tách rời mà luôn có những mối quan hệ nhất định cả về hình thức
lẫn ngữ nghĩa. Quan hệ về ý nghĩa giữa các đơn vị từ vựng là một trong
những mối quan hệ được các nhà khoa học ngôn ngữ quan tâm làm rõ. Các từ
đồng nhất về nghĩa được tập trung thành các nhóm gọi là trường nghĩa (hay
trường từ vựng hoặc trường từ vựng ngữ nghĩa).
Lí thuyết trường nghĩa được một số nhà ngôn ngữ học người Đức, Nga
và Thụy Sĩ đưa ra vào những thập kỉ 20 và 30 của thế kỉ XX với các tên tuổi
như M.M. Pokrovxki, F.de. Sausure, G. Ipsen, W. Porzig, J.Trier.... Ở Việt
Nam, lí thuyết về trường nghĩa mới được đề cập đến trong vài chục năm trở
lại đây.
Ở Việt Nam, trường nghĩa cũng là đối tượng được nhiều nhà nghiên
cứu đề cập đến như: Đỗ Hữu Châu, Nguyễn Thiện Giáp, Hoàng Trọng Phiến,
Đỗ Việt Hùng… trong đó tiêu biểu nhất là nhà nghiên cứu Đỗ Hữu Châu. Từ
những năm 80 của thế kỉ trước, Đỗ Hữu Châu là người đã giới thiệu trường
trong một loạt các công trình trên những phương diện lịch sử vấn đề, hệ thống
hóa các quan điểm phương pháp của các nhà ngôn ngữ học thế giới, đồng thời
đưa ra các tiêu chí cũng như phương pháp xác lập trường.
Qua thực tế nghiên cứu, Đỗ Hữu Châu đã khẳng định rằng: Những
quan hệ về ngữ nghĩa giữa các từ sẽ hiện ra khi đặt được các từ vào những hệ
thống con thích hợp. Nói cách khác, tính hệ thống về ngữ nghĩa của từ vựng
6
thể hiện qua những tiểu hệ thống ngữ nghĩa trong lòng từ vựng và quan hệ
ngữ nghĩa giữa các từ riêng lẻ thể hiện qua quan hệ giữa những tiểu hệ thống
ngữ nghĩa chứa chúng. [4,156]
Từ đó, Đỗ Hữu Châu đã đưa ra định nghĩa: Mỗi tiểu hệ thống ngữ
nghĩa được gọi là một trường nghĩa. Đó là những từ đồng nhất với nhau về
ngữ nghĩa. [4, 157]. Quan niệm này lấy tiêu chí ngữ nghĩa làm cơ sở cho việc
phân lập trường nghĩa. Đây là quan niệm có tính chất định hướng cho các
quan niệm về trường nghĩa của các nhà Việt ngữ khác sau ông.
Khóa luận của chúng tôi lấy quan niệm về trường nghĩa của Đỗ Hữu
Châu làm cơ sở lí thuyết để nghiên cứu.
1.1.2. Phân loại trường nghĩa
F. De Saussure trong Giáo trình ngôn ngữ học đại cương đã chỉ ra hai
dạng: quan hệ ngang (hay quan hệ hình tuyến, quan hệ tuyến tính, quan hệ
ngữ đoạn) và quan hệ dọc (hay quan hệ trực tuyến, quan hệ hệ hình). Dựa vào
hai quan hệ cơ bản trong ngôn ngữ, Đỗ Hữu Châu chia trường nghĩa tiếng
Việt thành các loại khác nhau: trường nghĩa biểu vật, trường nghĩa biểu niệm
(hai trường nghĩa dựa vào quan hệ dọc); trường nghĩa tuyến tính (dựa vào
quan hệ ngang) và trường nghĩa liên tưởng (dựa vào sự kết hợp giữa quan hệ
dọc và quan hệ ngang).
1.1.2.1. Trường nghĩa biểu vật
Trường nghĩa biểu vật là “một tập hợp những từ đồng nghĩa về ý nghĩa biểu
vật” [5, 170]. Chẳng hạn, trường nghĩa biểu vật về tay: cổ tay, bàn tay, ngón tay,
bắp tay, cầm, bám, bưng… Đây là các đơn vị từ cùng phạm vi biểu vật tay.
Các trường nghĩa biểu vật lớn có thể chia thành các trường nghĩa biểu
vật nhỏ. Đến lượt mình, các trường nghĩa biểu vật nhỏ này cũng có thể phân
chia thành các trường nghĩa biểu vật nhỏ hơn nữa.
Chẳng hạn, trường nghĩa biểu vật về tay:
7
+ Trường nghĩa chỉ bộ phận của tay: cánh tay, bàn tay, cổ tay, ngón tay,
đốt, móng, hoa tay,…
+ Trường nghĩa đặc điểm ngoại hình của tay: (ngón tay) búp măng, dùi
đục, (bàn tay) mỏng, dày, thô, cứng, mềm mại…
+
Trường nghĩa chỉ hoạt động của tay (chưa phân hóa): ấn, ẩy, bám,
băm, bắt, cào, cấy, chép, chẻ…
Số lượng từ ngữ và cách tổ chức của các trường nghĩa biểu vật rất khác
nhau. Sự khác nhau này diễn ra giữa các trường lớn với nhau và giữa các
trường nhỏ trong một trường lớn. Nếu so sánh các trường cùng một tên gọi
trong các ngôn ngữ với nhau thì sự khác nhau trên còn rõ hơn nữa.
Nếu tạm gọi một trường nhỏ (hay một nhóm nhỏ trong một trường nhỏ)
là một “miền” của trường, thì thấy, các miền thuộc các ngôn ngữ rất khác
nhau. Có những miền trống – tức không có từ ngữ - ở ngôn ngữ này nhưng
không trống ở ngôn ngữ kia, có miền có mật độ cao trong ngôn ngữ này
nhưng lại thấp trong ngôn ngữ kia.
Vì từ có nhiều nghĩa biểu vật, cho nên, từ có thể nằm trong nhiều
trường biểu vật khác nhau, hệ quả là các trường nghĩa biểu vật có thể “giao
thoa”, “thẩm thấu”. Xét trường biểu vật về người và trường biểu vật về động
vật, ta sẽ thấy rất rõ điều này. Trường nghĩa người sẽ bao gồm các từ: đầu,
tóc, mắt, cổ , bụng, tay, chân, mũi, miệng, mồm, răng, lưỡi, ruột, dạ dày, thịt,
lông, ăn, uống, chạy, nhảy, khóc, cười, hát, ngủ, nằm… Trường nghĩa động
vật sẽ gồm các từ: đầu, đuôi, sừng, cổ, mắt, chân, mũi, răng, lưỡi, ruột, dạ
dày, da, máu, chạy, nhảy, hót, hí, hú, ngủ, nằm… Hầu hết các từ nằm trong
trường động vật đều nằm trong trường người, ví dụ các từ: đầu, cổ, mắt, chân,
mũi, miệng, lưỡi, dạ dày, ăn, uống, chạy, nhảy, ngủ, nằm… Ta nói trường
người và trường động vật giao thoa, thẩm thấu vào nhau. Mức độ giao thoa
của các trường tỉ lệ thuận với số lượng từ chung giữa các trường với nhau.
8
Quan hệ của các từ ngữ đối với một trường nghĩa biểu vật không giống
nhau. Có những từ điển hình cho trường được gọi là hướng tâm, có những từ
không điển hình cho trường được gọi là từ hướng biên. Từ hướng tâm gắn rất
chặt với trường làm thành cái lõi trung tâm quy định những đặc trưng ngữ
nghĩa của trường. Từ hướng biên gắn bó lỏng lẻo hơn và mỗi lúc một đi xa
khỏi lõi, liên hệ với trường mờ nhạt đi. Ở ví dụ về trường người và trường
động vật trên, các từ hướng tâm là các từ chỉ có ở trường này mà không có ở
trường kia, các từ hướng tâm của trường người như khóc, buồn, hát…, các từ
hướng tâm của động vật là các từ hí, hót, hú, đuôi… Từ hướng biên của
chúng là những từ xuất hiện ở cả hai trường như đầu, chân, mắt, mũi, ruột,
dạ dày, chạy, nằm, ăn, uống…
1.1.2.2. Trường nghĩa biểu niệm
Trường nghĩa biểu niệm là “một tập hợp các từ có chung một cấu trúc
biểu niệm [5, 176]. Chẳng hạn, trường nghĩa biểu niệm (vật thể nhân tạo)
(thay thế hoặc tăng cường công tác lao động) (bằng tay): dao, cưa, búa, đọc,
khoan, lưới, nơm, dao, kiếm….
Cũng như các trường nghĩa biểu vật, các trường biểu niệm có thể phân
chia thành các trường nghĩa biểu niệm nhỏ và cũng có những “miền” với
những mật độ khác nhau.
Từ có nhiều nghĩa biểu niệm, bởi vậy, một từ có thể đi vào nhiều
trường nghĩa biểu niệm khác nhau. Vì thế, cũng giống như trường nghĩa biểu
vật, các trường nghĩa biểu niệm cũng có thể giao thoa, thẩm thấu vào nhau và
cũng có lõi trung tâm với các từ điển hình và những từ ở những lớp kế cận
trung tâm, những từ ở lớp ngoại vi.
1.1.2.3. Trường nghĩa tuyến tính
Trường nghĩa tuyến tính là tập hợp từ có thể kết hợp với một từ gốc để
tạo ra các chuỗi tuyến tính (cụm từ, câu) chấp nhận được trong ngôn ngữ.
9
Chẳng hạn, trường nghĩa tuyến tính của từ chân là mềm, ấm, lạnh,…đứng, đi,
nhảy, đá…
Để xác lập được trường nghĩa tuyến tính, chúng ta chọn một từ làm gốc
rồi tìm tất cả những từ có thể kết hợp với nó thành chuỗi tuyến tính (cụm từ,
câu) chấp nhận được trong ngôn ngữ.
Cùng với các trường nghĩa dọc (trường nghĩa biểu vật và trường nghĩa
biểu niệm), các trường nghĩa tuyến tính góp phần làm sáng tỏ những quan hệ
và cấu trúc ngữ nghĩa của từ vựng, phát hiện những đặc điểm nội tại và những
đặc điểm hoạt động của từ.
1.1.2.4. Trường nghĩa liên tưởng
Trường nghĩa liên tưởng là tập hợp từ có chung một nét nghĩa ấn
tượng tâm lí được một từ gợi ra [5, 186]. Chẳng hạn, trường nghĩa của từ đỏ
gồm các đơn vị từ vựng: đỏ tươi, đỏ tía, lửa, máu, sức sống, may mắn,…
Các từ trong một trường liên tưởng là sự hiện thực hóa, cố định bằng từ
các ý nghĩa liên hội có thể có của từ trung tâm.
Các từ trong một trường liên tưởng trước hết là những từ cùng nằm
trong trường biểu vật, trường biểu niệm và các trường tuyến tính, tức là
những từ có quan hệ cấu trúc đồng nhất và đối lập về ngữ nghĩa với từ trung
tâm. Song, trong trường liên tưởng còn có nhiều từ khác được liên tưởng tới
do sự xuất hiện đồng thời với từ trung tâm trong những ngữ cảnh có chủ đề
tương đối đồng nhất, lặp đi lặp lại. Điều này khiến cho các trường liên tưởng
có tính dân tộc, tính thời đại và tính cá nhân.
1.2. Mối quan hệ giữa trường nghĩa với ngôn ngữ văn chương
1.2.1. Trường biểu vật và ngôn ngữ văn chương
Tác giả Đỗ Hữu Châu đã nhận xét như : các từ trong một trường biểu vật
thường lôi kéo nhau chuyển nghĩa theo một hướng nhất định.
10
Nếu các từ chuyển theo ẩn dụ thì thường xảy ra sự chuyển trường biểu
vật, có nghĩa là các từ thuộc trường biểu vật này kéo theo nhau chuyển sang
trường biểu vật khác tạo nên hiện tượng được gọi là cộng hưởng ngữ nghĩa.
Ví dụ: từ “lửa” chuyển sang trường tình cảm, trạng thái tâm lý thì kéo
theo các từ hừng hực, rực, bốc, nhen nhóm, đốt, tàn… cùng chuyển sang
trường đó (nhen nhóm một tình yêu).
Trong văn chương, các từ ngữ trong một câu văn, một đoạn văn thường
kéo theo nhau theo cùng một trường để tạo ra sự phù hợp về trường nghĩa
biểu vật. Có thể nói tới hình ảnh chủ đạo (tức ẩn dụ, hoán dụ) của đoạn văn,
câu văn (hay của một tác phẩm), hình ảnh chủ đạo thuộc trường biểu vật nào
thì kéo theo các từ khác cùng trường với nó:
Không đâu, gió nén từ tám hướng đang bung ra. Một cơn bão đang đến.
Lao vào Nam Lào, con thuyền Việt Nam hóa chiến tranh của Nich Xơn đã lao
vào trung tâm một cơn bão lớn. Bão nổi ở Cha Kia, La Tương… Bão quật
sang đỉnh cao 500 xoáy vụn tiểu đoàn 39… Bão dập xuống đồi 456 xẻ nát tiểu
đoàn 3 và cuốn sạch chỉ huy lữ đoàn 4… Bão xoáy lốc trên ngọn 550 vùi luôn
tất cả những khẩu pháo hạng nặng cùng với lữ đoàn số 147… Bão dồn gió
thép về bản Đông. (Báo Quân Đội nhân dân, ngày 9-4-1971)
Hình ảnh chủ đạo là bão táp kéo theo các từ gió, nén, hướng trung tâm,
nổi, quật, dồn, cuốn, lốc…
Hình ảnh chủ đạo có khi được nói rõ ra, có khi được hiểu ngầm qua các
từ cùng trường trong đoạn văn.
Mặt khác, với văn chương, sáng tạo trong hình ảnh ngôn ngữ thường là
sáng tạo cục bộ, bắt nguồn từ nguyên mẫu đã có từ trước, nguyên mẫu được
chứa trong các ẩn dụ, hoán dụ truyền thống. Điều này giải thích tính truyền
thống và tính sáng tạo trong các hình ảnh văn chương. Bên cạnh đó, tác động
của trường biểu vật còn thể hiện ở cái gọi là các lực hướng tâm và li tâm của
11
trường. Theo Han Sprerber, nguồn gốc chủ yếu của sáng tạo văn học và
chuyển nghĩa là các lực cảm xúc. Do đó, ở mỗi cá nhân cũng có những phạm
vi tư tưởng riêng, những ám ảnh riêng, gây ra những lực cảm xúc riêng ở từng
người. Chúng tác động theo hai hướng: một mặt chúng “bành trướng” ra lấn
vào các phạm vi tư tưởng và từ ngữ khác và hút về mình những từ ngữ thuộc
những lĩnh vực khác.
Thí dụ: Trước đây 28 năm, phạm vi tư tưởng trung tâm của nước ta là
chiến đấu, chúng ta thấy những từ ngữ thuộc trường quân sự, lấn sang các
trường khác: Mặt trận văn hóa, kinh tế, chiến dịch trừ sâu; vũ khí tư tưởng…
lấn sang cả tình yêu: tấn công, bao vây…
1.2.2. Trường biểu niệm và ngôn ngữ văn chương
Khi phản ánh một hiện tượng nào đó vào tác phẩm, người viết “khắc
họa” nó bằng ngôn ngữ của mình. Đối với một đoạn thơ thường chứa đựng
một cái gì đồng nhất về nghĩa xuất phát từ các phương diện của hiện thực, tạo
thành sự vật được nhận thức của tác phẩm. Để làm nổi bật cái đồng nhất đó,
từ ngữ diễn đạt cũng phải chứa cái gì đó chung, phù hợp với nhau tạo nên
hiện tượng được gọi là sự cộng hưởng ngữ nghĩa giữa các từ. Sự cộng hưởng
ngữ nghĩa này dựa trên nét nghĩa đồng nhất vốn có trong các từ, nói khác đi,
dựa trên nét nghĩa chung cho một trường (hay một nhóm từ ngữ trong một
trường) biểu niệm.
Trở lại với đoạn văn viết về chiến thắng Nam Lào 1971 đã dẫn ở trên,
ngoài sự thống nhất về trường biểu vật gió bão, các từ còn thống nhất về nét
nghĩa “cường độ mạnh”: bão, nén, nổi, lao, quật,… cả đến đối tượng tức nạn
nhân của cơn bão và của các vận động mạnh mẽ, cũng là những sự vật to
khỏe: tiểu đoàn, lữ đoàn,… những khẩu pháo hạng nặng… Việc sử dụng
những tập hợp từ ngữ như trên đã tạo ra hình ảnh về quân sự với những “sức
mạnh” của một “cơn bão lớn”.
12
Sự cộng hưởng về ngữ nghĩa không chỉ xảy ra đối với các từ ngữ mà nó
còn có thể chi phối cấu trúc cú pháp, cả ngữ âm, tiết tấu,… Do đó, người viết
thường phối hợp tất cả các yếu tố, các phương tiện ngôn ngữ để tạo ra sự toàn
bích về hình thức cho tác phẩm của mình.
1.2.3. Trường nghĩa tuyến tính và ngôn ngữ văn chương
Trong ngôn ngữ văn chương, có những trường nghĩa tuyến tính vượt
ngoài chuẩn mực. Đây là những sáng tạo của các nhà văn, nhà thơ trong cách
dùng từ ngữ. Những kết hợp bất thường này có thể được chấp nhận rộng rãi,
trở thành những kết hợp bình thường. Suối, bờ,… trong ngôn ngữ thơ có thể
kết hợp với tóc thành suối tóc với vai thành bờ vai. Chúng chưa thành thành
tố của trường nghĩa tuyến tính của hai từ tóc và vai trong khi mây đã đi vào
trường nghĩa tuyến tính bình thường của tóc: tóc mây.
1.2.4. Trường liên tưởng và ngôn ngữ văn chương
Trường liên tưởng có hiệu lực lớn, giải thích sự dùng từ, nhất là sự dùng
từ trong các tác phẩm văn học, giải thích những hiện tượng sáo ngữ, sự ưa
thích lựa chọn những từ nào đấy để nói hay viết, sự né tránh hoặc kiêng kị
những từ nhất định.
Không nói đến những sự sai biệt về chủ đề, về tư tưởng, về các chi tiết
thực tế, về hình tượng… Chỉ riêng diện mạo ngôn ngữ cũng đủ làm chúng ta
không lẫn được một tác phẩm văn học của thời đại này với tác phẩm văn học
của thời đại khác. Một tác giả đã từng sáng tác có hiệu quả trong thời kỳ trước
thường gặp khó khăn trong các sáng tác thời kỳ sau, đặc biệt là các thời kỳ đã
xuất hiện những thay đổi rất căn bản trong xã hội. Đó không chỉ vì người đó
đã mang quá nặng những “nghiệp chướng” của thời đại mình mà còn vì ngôn
ngữ của mình đã bị ràng buộc quá sâu nặng với các trường liên tưởng cũ.
13
Do đó, mỗi người nghệ sĩ phải gắn bó với cuộc sống, với thời đại để
không chỉ thường xuyên đổi mới tư tưởng, vốn sống, tình cảm mà còn để
thường xuyên cải tạo, đổi mới ngôn ngữ của mình.
1.3. Đặc điểm ngôn ngữ của truyện Nguyễn Nhật Ánh
Nguyễn Nhật Ánh trở thành một hiện tượng đặc biệt của văn học thiếu
nhi sau 1975 bởi, đọc truyện của ông, không chỉ trẻ thơ mà ai cũng thấy chính
mình trong đó, cái tên ấy còn trở thành bạn của trẻ em mọi miền đất nước. Trẻ
em có một thế giới riêng mà người lớn không phải ai cũng biết và hiểu được.
Nhưng Nguyễn Nhật Ánh đã làm được điều đó.
Truyện Nguyễn Nhật Ánh không có cấu trúc phúc tạp. Do viết cho
thiếu nhi nên nội dung kể được chú ý hơn cách kể. Nhà văn đặc biệt thường
lựa chọn cách kể từ ngôi thứ nhất (xưng tôi), khiến truyện của ông có tính chất
hồi ức. Nguyễn Nhật Ánh được coi là người kể truyện mang điểm nhìn trẻ thơ
và trở thành người kể chuyện của thiếu nhi chính bởi sự hóa thân, nhập vai
khéo léo.
Sức hút của truyện Nguyễn Nhật Ánh còn nằm ở ngôn ngữ, giọng điệu
trẻ thơ. Trong những tác phẩm, ngôn ngữ truyện kể là thứ ngôn ngữ trẻ con,
mà đối với người lớn thì ngôn ngữ trẻ con cũng giống như một thứ ngoại ngữ.
Nguyễn Nhật Ánh hiểu và kể truyện bằng thứ ngoại ngữ dành cho người lớn
ấy nên hiển nhiên truyện Nguyễn Nhật Ánh là tiếng nói của thiếu nhi. Cũng
chỉ có Nguyễn Nhật Ánh mới bênh vực sự ngược đời, ngổ ngáo, trở chứng
của trẻ (như: ăn cơm trong thau, uống nước bằng chai, gọi cái nón là cuốn
tập…) và xem nó như là cuộc “cách tân táo bạo”, hay những “sáng tạo” gắn
liền với tâm lí, óc tưởng tượng phong phú và nhu cầu làm cho cuộc sống của
trẻ thú vị, mới mẻ hơn. Có thể nói, truyện Nguyễn Nhật Ánh là những câu
chuyện được kể với thứ ngôn ngữ kì lạ, dí dỏm, nhưng không hề xa lạ, khó
14