“vũ như tô” của nguyễn huy tưởng dưới góc nhìn thể loại
“Vũ Như Tô” của Nguyễn Huy Tưởng dưới góc nhìn thể loại
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN
BỘ MÔN NGỮ VĂN
CHÂU THANH MỘNG
MSSV: 6062124
“VŨ NHƯ TÔ” CỦA NGUYỄN HUY TƯỞNG
DƯỚI GÓC NHÌN THỂ LOẠI
Luận văn tốt nghiệp Đại học
Ngành Ngữ văn – Niên khóa 2006 - 2010
Cán bộ hướng dẫn : ThS. BÙI THANH THẢO
Cần Thơ, tháng 5 - 2010
GVHD: Bùi Thanh Thảo
-1-
SVTH: Châu Thanh Mộng
“Vũ Như Tô” của Nguyễn Huy Tưởng dưới góc nhìn thể loại
ĐỀ CƯƠNG TỔNG QUÁT
PHẦN MỞ ĐẦU
1.
2.
3.
4.
5.
Lí do chọn đề tài
Lịch sử vấn đề
Mục đích yêu cầu
Phạm vi nghiên cứu
phương pháp nghiên cứu
PHẦN NỘI DUNG
Chương một: Vài nét về kịch và tác gia Nguyễn Huy Tưởng
1.1. Vài nét về kịch
1.1.1 Khái niệm
1.1.2 Xung đột kịch
1.1.3 Hành động và cốt truyện kịch
1.1.4 Nhân vật kịch
1.1.5 Ngôn ngữ kịch
1.2 Vài nét về tác gia nguyễn Huy Tưởng
1.2.1. Tác giả
1.2.2.Tác phẩm
1.2.3.Các giải thưởng
1.2.4.Quan niệm sáng tác
1.2.5.Nguyễn Huy Tưởng một phong cách riêng và khát khao sáng tạo
Chương hai: Nội dung tác phẩm “Vũ Như Tô”
2.1 Giới thiệu tác phẩm
2.2 Hình tượng người nghệ sĩ Vũ Như Tô
2.2.1 bi kịch của người nghệ sĩ trước cường quyền
2.2.2 Vũ Như Tô, một người nghệ sĩ thuần túy
2.2.3 Vũ Như Tô không dung hòa được quyền lợi dân tộc và quyền lợi nhân dân
2.3 Hình tượng Đan Thiềm
2.4 Hình tượng quần chúng nhân dân
2.5 Hình tượng Lê Tương Dực
Chương ba: Nghệ thuật tác phẩm “Vũ Như Tô”
3.1 Hành động và cốt truyện kịch
3.2 Ngôn ngữ
3.3 Nghệ thuật xây dựng nhân vật
PHẦN KẾT LUẬN
Tài liệu tham khảo
Mục lục
GVHD: Bùi Thanh Thảo
-2-
SVTH: Châu Thanh Mộng
“Vũ Như Tô” của Nguyễn Huy Tưởng dưới góc nhìn thể loại
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong kho tàng văn học Việt Nam, bên cạnh sự đồ sộ của thơ và văn xuôi, thì
kịch vẫn còn chiếm một vị trí khá khiêm tốn. Suốt chiều dài của nền văn học, ta dễ
dàng nhận ra những cây bút với những tác phẩm thơ, văn xuôi xuất sắc. Đó là những
tinh tú của nền văn xuôi: Nguyễn Dữ, Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Nam Cao...
Hay những viên ngọc của nền thơ ca: Nguyễn Du, Phan Bội Châu, Xuân Diệu, Chế
Lan Viên, Tố Hữu... và còn rất nhiều các nhà văn nhà thơ nổi tiếng khác. Trong khi
thể loại thơ và văn xuôi hình thành rất sớm và đã khẳng định được giá trị của mình,
thì mãi đến đầu thế kỉ XX thể loại kịch mới dần được định hình và phát triển nhưng
cũng rất hạn chế, chỉ với một vài tác giả như: Vi Huyền Đắc, Đoàn Phú Tứ, Nguyễn
Huy Tưởng, Nguyễn Đình Thi, Lưu Quang Vũ. Vì là một thể loại còn “khá mới” nên
ít nhiều các tác giả kịch văn học còn gặp nhiều khó khăn. Những tác phẩm kịch chưa
để lại nhiều ảnh hưởng lớn cho nền văn học là điều đương nhiên. Tuy nhiên, như thế
không có nghĩa là những tác phẩm kịch ở giai đoạn này không đạt được thành tựu. Có
những tác phẩm đã để lại những tư tưởng nội dung khá mới mẻ, những vấn đề về thực
tại cần được giải quyết thỏa đáng trong cuộc sống, cũng có những vấn đề đặt ra cho
muôn đời. Và vở kịch Vũ Như Tô của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng là một trong số
những tác phẩm thành công nhất. Ra đời vào những năm 40 của thế kỉ XX, Vũ Như
Tô là tác phẩm kịch được nhà văn sáng tác dựa trên sự kế thừa những tinh hoa của bi
kịch cổ điển Pháp, dựa vào câu chuyện có thật trong lịch sử (Vũ Như Tô xây Cửu
trùng đài vào thời vua Lê Tương Dực), và thực tế của xã hội đương thời. Bằng ngòi
bút tinh tế, tài năng, một tư tưởng “ hết mình vì nghệ thuật”, sự say mê lịch sử, nỗi
băn khoăn về thiên chức của người nghệ sĩ trong xã hội đương thời. Nhà văn của
chúng ta đã tạo ra một tác phẩm “kiệt xuất”, một tác phẩm mà cho đến ngày hôm nay
dễ có mấy ai giải đáp được câu hỏi mà tác giả đặt ra trong lời đề tựa: “Chẳng biết Vũ
Như Tô phải hay những kẻ giết Như Tô phải. Đài Cửu trùng không thành nên mừng
hay nên tiếc… Mãi vật lộn quên cả đài cao mộng lớn. Công ông cha hay là nỗi thiệt
GVHD: Bùi Thanh Thảo
-3-
SVTH: Châu Thanh Mộng
“Vũ Như Tô” của Nguyễn Huy Tưởng dưới góc nhìn thể loại
thòi? (…) Than ôi! Như Tô phải hay những kẻ giết Như Tô phải? Ta chẳng biết. Cầm
bút chẳng qua cùng một bệnh với Đan Thiềm”.
Ở đây, người viết chọn đề tài “ Vũ Như Tô của Nguyễn Huy Tưởng dưới
góc nhìn thể loại” làm đề tài cho luận văn tốt nghiệp vì tác phẩm này ra đời vào
những năm 40 của thế kỉ XX, cho đến nay đã trải qua hơn 60 năm, nhưng những vấn
đề trong vở kịch năm hồi của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng vẫn còn nguyên giá trị.
Người viết mong muốn qua bài nghiên cứu của mình sẽ góp phần đưa người đọc đến
một cách nhìn nhận, đánh giá tác phẩm theo một hướng khác. Phần nào giúp cho
người đọc hiểu thêm về những giá trị đích thực mà tác giả Nguyễn Huy Tưởng muốn
gửi gấm qua tác phẩm Vũ Như Tô, cũng như là giá trị của tác phẩm này đối với nền
Văn học – Nghệ thuật nuớc nhà.
2. Lịch sử vấn đề
Nguyễn Huy Tưởng khởi đầu nghiệp văn của mình bằng tác phẩm kịch Vũ Như
Tô (1941). Sau đó là hàng loạt các truyện ngắn, kịch dài, tiểu thuyết… Nhưng ngay
sau khi cho ra đời tác phẩm Vũ Như Tô, Nguyễn Huy Tưởng đã tạo cho mình một chỗ
đứng vững chắc trên văn đàn, góp phần làm phong phú thêm cho làng kịch nói dân
tộc. Bằng ngòi bút sử thi mang màu sắc lịch sử kết hợp với phong vị lãng mạn, với
nội dung khai thác những mâu thuẫn của xã hội, những xung đột quyết liệt liên quan
đến vận mệnh của dân tộc, Vũ Như Tô đã tạo nên một tiếng vang lớn trong nền văn
học. Qua tác phẩm Vũ như Tô, ta có thể xem đó như là tuyên ngôn nghệ thuật của tác
giả. Đó là bi kịch của một người nghệ sĩ có tài, một mặt không muốn phục vụ cho hôn
quân, mặt khác muốn đem tài năng xây dựng một công trình vĩ đại muôn đời. Hành
động của Vũ Như Tô đi ngược lại với quyền lợi của nhân dân, nên nhân dân nổi dậy
đốt Cửu trùng đài và giết chết Vũ Như Tô. Trước lúc chết, Vũ Như Tô chẳng hiểu
mình có tội tình gì. Cái băn khoăn, ngơ ngác, mâu thuẫn trong con người Vũ Như Tô
chính là sự kí gửi nỗi niềm của Nguyễn Huy Tưởng khi đứng giữa thời cuộc lúc bấy
giờ.
Đã có rất nhiều bài viết của các nhà nghiên cứu đi sâu tìm hiểu, lí giải nguyên
nhân dẫn đến bi kịch Vũ Như Tô.
GVHD: Bùi Thanh Thảo
-4-
SVTH: Châu Thanh Mộng
“Vũ Như Tô” của Nguyễn Huy Tưởng dưới góc nhìn thể loại
Hà Minh Đức và Phan Cự Đệ với bài viết “Tiểu thuyết và kịch lịch sử của
Nguyễn Huy Tưởng trước cách mạng tháng tám”, là những người đầu tiên nghiên cứu
về vấn đề này. Hà Minh Đức cho rằng cách đặt vấn đề và suy nghĩ của Nguyễn Huy
Tưởng là tích cực và tiến bộ nhưng do thái độ ngập ngừng giữa lí trí và tình cảm nên
tác giả đã giải quyết vấn đề không triệt để. Theo ông sự lúng túng của Nguyễn Huy
Tưởng được bộc lộ ngay trong lời đề tựa “Than ôi! Như Tô phải hay những kẻ giết
Như Tô phải? ta chẳng biết. Cầm bút chẳng qua cùng một bệnh với Đan Thiềm”
khiến cho nhân vật Vũ như Tô vừa đáng thương vừa đáng giận. Hà Minh Đức và
Phan Cự Đệ nhận thấy muốn đánh giá đúng tác phẩm Vũ Như Tô thì phải đặt nó vào
hoàn cảnh lịch sử những năm 1940 – 1943. Theo các tác giả khi viết tác phẩm Vũ như
Tô, Nguyễn Huy Tưởng muốn giải quyết ba vấn đề: thứ nhất - vấn đề nghệ thuật
chống cường quyền; thứ hai - vấn đề quan hệ giữa nghệ sĩ và quần chúng; thứ ba - vấn
đề văn hóa dân tộc. Trong bài viết của mình, hai nhà nghiên cứu Hà Minh Đức và
Phan Cự Đệ đã đưa ra những nhận xét và lí giải về cách đặt vấn đề, giải quyết vấn đề
theo chúng tôi là thỏa đáng. Hai ông cho rằng bi kịch của Vũ Như Tô xuất phát từ
niềm say mê nghệ thuật thuần túy cũng là hợp lí và nguyên nhân chính ở đây là do
nhà văn Nguyễn Huy Tưởng chưa thoát ra được tư tưởng “nghệ thuật vị nghệ thuật”.
Chúng tôi đồng tình với hai nhà nghiên cứu về việc đánh giá tác phẩm Vũ Như Tô
phản ánh những mâu thuẫn, lúng túng trong thế giới quan và phương pháp xây dựng
nhân vật của tác giả. Bên cạnh đó theo chúng tôi các ông vẫn chưa làm nổi bật được
vấn đề “Đan Thiềm”. Vì nhân vật Đan Thiềm đóng một vai trò rất quan trọng, là nhân
tố tác động trực tiếp đến tình tiết của vở kịch, là nguyên nhân dẫn đến bi kịch (khách
quan) của Vũ Như Tô.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Thành trong bài viết “Tìm hiểu kịch Nguyễn Huy
Tưởng” cho rằng việc Vũ Như Tô nhận xây Cửu trùng đài dường như là biểu hiện sự
khuất phục của nghệ thuật trước cường quyền, trong sự đối mặt với cường quyền
người nghệ sĩ đã tìm giải pháp ở chính trong bản thân – hướng về cái đẹp thuần túy.
Ông cho rằng, Nguyễn Huy Tưởng lúng túng trong việc giải quyết mâu thuẫn cho
nhân vật của mình. Ông vừa muốn phê phán một niềm say mê nghệ thuật mơ hồ, vừa
muốn trân trọng nâng niu nhân vật của mình, cố tô vẽ lên hình ảnh của một người
GVHD: Bùi Thanh Thảo
-5-
SVTH: Châu Thanh Mộng
“Vũ Như Tô” của Nguyễn Huy Tưởng dưới góc nhìn thể loại
nghệ sĩ trong sáng. Cách nhìn nhận đánh giá của nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Thành
cũng giống như đa số các nhà nghiên cứu khác - Vũ Như Tô là một người sống chết
hết mình vì nghệ thuật, và sự lúng túng trong cách giải quyết vấn đề của nguyễn Huy
Tưởng.
Phong Lê với bài viết “Nguyễn Huy Tưởng – văn xuôi và kịch” đã đặt câu hỏi
phải chăng sẽ tồn tại niềm khát khao về sự bất tử của nghệ thuật, về sự thăng hoa
những khả năng sáng tạo của con người ở Vũ Như Tô và cũng là ở Nguyễn Huy
Tưởng? Ở đây, Phong Lê chỉ nhìn nhận vấn đề ở góc độ là sự vĩnh hằng của nghệ
thuật, một nền nghệ thuật chân chính sẽ tồn tại được hay không. Ông chưa nhìn nhận
được vai trò của quần chúng và sức mạnh của họ, cũng như chưa nhận ra sự mâu
thuẫn trong chính con người Vũ dẫn đến tấn bi kịch bi thảm cho chính nhân vật này.
Tác giả Văn Tâm với “Vũ Như Tô trong cuộc đời bát nháo” tỏ ý muốn “thanh
minh” cho Nguyễn Huy Tưởng qua lời kêu gọi sự cảm thông của mọi người đối với
tác giả vở kịch này. Văn Tâm không đồng ý với nhận xét cho rằng “thời kỳ đó tư
tưởng của Nguyễn Huy Tưởng chưa ổn định”. Văn Tâm cho rằng, tiếng nói của Đan
Thiềm không hẳn là tiếng nói của “nghệ thuật thuần túy” - “nghệ thuật vị nghệ thuật”,
mà thật ra đó chính là tiếng nói của dân tộc “nghệ thuật vị dân tộc”. Văn Tâm đánh
giá cao vở kịch Vũ Như Tô ngay từ những ý tưởng đầu tiên của tác giả, đồng thời
cũng là cảm hứng chủ đạo xuyên suốt vở là ca ngợi một kiến trúc sư tài ba có “tâm
hồn trong trẻo”, xây Cửu trùng đài chỉ vì muốn “Dựng một kì công muôn thuở để tô
điểm cho đất nước” và “làm vinh dự cho non sông”. Văn Tâm đã có lí với nhận định
của mình. Ông cho rằng, bi kịch của Vũ Như Tô do cuộc đời “bát nháo”, do hoàn
cành xã hội gây nên. Ông cũng thừa nhận tác giả Nguyễn Huy Tưởng chưa đủ khả
năng để giải quyết vấn đề, và Đan Thiềm không phải là một con người sống vì nghệ
thuật thuần túy mà là “nghệ thuật vị dân tộc”. Chúng tôi nhận thấy ông đánh giá tác
phẩm bằng con mắt đồng cảm, bảo vệ cho Nguyễn Huy Tưởng. Ông chưa thực sự
nhìn ra vân đề ở đây. Không phải việc tồn tại của nghệ thuật chỉ cần có sự dung hòa
giữa quyền lợi dân tộc và quyền lợi nhân dân, mà vấn đề ở đây là nền nghệ thuật đó
phải phục vụ cho ai, phục vụ như thế nào.
GVHD: Bùi Thanh Thảo
-6-
SVTH: Châu Thanh Mộng
“Vũ Như Tô” của Nguyễn Huy Tưởng dưới góc nhìn thể loại
Nhà nghiên cứu Phan Trọng Thưởng đã viết “Nguyễn Huy Tưởng – nghệ sĩ và
công dân” Tác giả cho rằng bi kịch Vũ Như Tô là bi kịch của người nghệ sĩ “sinh bất
phùng thời”, khao khát sáng tạo trong một xã hội không có chỗ cho sự khao khát đó.
Bi kịch Vũ Như Tô được coi là có 3 nguyên nhân chính: thứ nhất do nhận thức của
chính bản thân tác giả; thứ hai do tác động lịch sử; thứ ba do ý thức sâu sắc về thiên
chức nghệ sĩ của mình. Phan Trọng Thưởng đã phân biệt Vũ Như Tô – công dân và
Vũ Như Tô – nghệ sĩ. Theo ông ở góc độ công dân Nguyễn Huy Tưởng không muốn
cho Vũ Như Tô đem tài năng và tâm huyết phục vụ cho giai cấp thống trị, không
muốn để cho dân chúng phải cực khổ. Nhưng ở góc độ nghệ sĩ ông lại muốn tận dụng
cơ hội để thi thố tài năng, xây dựng một công trình nghệ thuật kiệt tác để tô điểm cho
đất nước. Mâu thuẫn giữa con người công dân và con người nghệ sĩ đã đẩy Vũ Như
Tô đến cái chết oan uổng.
Bài viết “Bệnh Đan Thiềm” của nhà nghiên cứu Phạm Xuân Nguyên thì tập
trung vào căn bệnh “Đan Thiềm”. Hay nói đúng hơn là tập trung vào tìm hiểu tư
tưởng Nguyễn Huy Tưởng thông qua câu cuối của lời đề tựa “Cầm bút chẳng qua
cùng một bệnh với Đan Thiềm” và coi đó là chiếc chìa khóa để hiểu đúng về tác phẩm
Vũ Như Tô. Phạm Xuân Nguyên coi vấn đề nghệ sĩ – quyền lực là một nội dung của
kịch, nhưng không phải là nội dung chính mà muốn hiểu được nội dung chính của Vũ
Như Tô phải trả lời được câu hỏi: Vì sao lúc đầu Vũ Như Tô cương quyết không nhận
xây Cửu trùng đài, rồi sau đó thuyết phục thợ thuyền đem tài năng xây dựng công
trình, nhưng rồi lại bị chính những người thợ đó nỗi dậy đốt cháy Cửu trùng đài? Câu
trả lời chính là sự thức tỉnh thiên chức kẻ sĩ của Vũ Như Tô qua lời khuyên của Đan
Thiềm, và sự nông nổi của đám đông không hiểu được ý nghĩa cao cả của công việc
sáng tạo. Theo chúng tôi nhà nghiên cứu Phạm Xuân Nguyên chính xác trong việc
xác định Đan Thiềm là chính là nhân tố tác động trực tiếp đến Vũ Như Tô trong việc
nhận xây Cửu trùng đài. Tuy nhiên, cũng cần thừa nhận rằng Đan Thiềm chỉ là nhân
tố “cần” chứ chưa phải là “đủ” để tác động đến Vũ Như Tô, mà nguyên nhân chính ở
đây là lòng say mê và khát khao sáng tạo của Vũ.
Đỗ Đức Hiểu đã viết “Bi kịch Vũ Như Tô” Ông cho rằng, Vũ Như Tô là một bi
kịch hiện đại của Việt Nam một bi kịch mang tính anh hùng ca. Ông nhấn mạnh vào
GVHD: Bùi Thanh Thảo
-7-
SVTH: Châu Thanh Mộng
“Vũ Như Tô” của Nguyễn Huy Tưởng dưới góc nhìn thể loại
lời đề tựa “Chẳng biết Vũ Như Tô phải hay những kẻ giết Vũ Như Tô phải… Than ôi!
Như Tô phải hay những kẻ giết Như Tô phải ta chẳng biết…” và xem đó như là một
bi kịch thứ hai của Vũ Như Tô. Đỗ Đức Hiểu không đánh giá đó là một thái độ “lúng
túng”, “mơ hồ” của Nguyễn Huy Tưởng qua lời “thú nhận” “ta chẳng biết”. Bởi vì,
Nguyễn Huy Tưởng đã xây dựng được một Vũ Như Tô cao đẹp lộng lẫy, nghệ sĩ và
kẻ sĩ, với khát vọng mênh mông vì cái đẹp, dân tộc và nhân loại… Đỗ Đức Hiểu
không dừng lại ở bề nổi mà đi sâu bóc tách từng ý nghĩa của vấn đề. Ông cho rằng Vũ
Như Tô mang ý nghĩa “Vĩnh cửu và toàn nhân loại”. Bằng con mắt thẩm mĩ khá tinh
vi và tế nhị, tác giả dẫn người đọc đến nhận thức về “ý nghĩa vĩnh cửu và toàn nhân
loại” của câu chuyện bi thảm mà nhà văn Việt Nam – Nguyễn Huy Tưởng kể bằng
ngôn ngữ kịch. Về phương diện thể loại, tác giả xác định Vũ Như Tô là một bi kịch –
một bi kịch hiện đại ở Việt Nam, dựa trên nền tảng của kịch cổ điển phương tây. Bài
viết dùng nhiều trang phân tích hình thức của tác phẩm kịch nhằm đi sâu vào thế giới
chìm ẩn bên trong tác phẩm. Có điều đáng tiếc là đặt cho bài viết của mình tiêu đề “Bi
kịch Vũ Như Tô” nhưng tác giả lại không tập trung làm rõ những đặc trưng cấu thành
của vở kịch này như một tác phẩm bi kịch. Trong bài viết này ông gần như hòa tan
phạm trù bi kịch trong phạm trù kịch. Trong khi đó như ta đã biết kịch và bi kịch có
những nét khác biệt cơ bản.
Nguyên Ngọc trong bài nghiên cứu “Nguyễn Huy Tưởng và quan niệm kẻ sĩ”
ông đã nêu lên vấn đề về số phận và thiên chức của người nghệ sĩ, của nền nghệ thuật
, những vấn đề sinh tử đối với nghệ thuật và với người nghệ sĩ có tài và chân chính.
Ông cho rằng Vũ Như Tô chính là tuyên ngôn nghệ thuật của Nguyễn Huy Tưởng.
Nguyên Ngọc nhìn nhận trong giai đoạn đầu sáng tác tư tưởng của Nguyễn Huy
Tưởng là tư tưởng sáng tác vì nghệ thuật “cùng bệnh với Đan thiềm”. Vì là một bài
viết bàn về quan niệm của kẻ sĩ nên tác giả chỉ tập trung khai thác vào vai trò và
nhiệm vụ của người nghệ sĩ. Theo chúng tôi, ông nên phân tích sâu thêm về mối quan
hệ giữa người nghệ sĩ, kẻ sĩ với cường quyền, với quần chúng nhân dân để làm rõ hơn
quan niệm về chữ “sĩ” của Nguyễn Huy Tưởng ở giai đoạn này.
Đã có rất nhiều các nhà nghiên cứu, phê bình về tác phẩm Vũ Như Tô qua từng
thời kì, từng giai doạn lịch sử khác nhau, dưới nhiều góc nhìn, góc độ, nhưng có lẽ
GVHD: Bùi Thanh Thảo
-8-
SVTH: Châu Thanh Mộng
“Vũ Như Tô” của Nguyễn Huy Tưởng dưới góc nhìn thể loại
chưa phải là hết những vấn đề đặt ra trong vở kịch này. Qua bài nghiên cứu của mình
người viết mong muốn góp một chút công sức vào việc làm sáng tỏ, lí giải thêm về bi
kịch của Vũ Như Tô, cũng như là quan điểm lập trường của Nguyễn Huy Tưởng đối
với “thiên chức và số phận” của người nghệ sĩ, của kẻ sĩ trong thời bấy giờ.
3. Mục đích yêu cầu
Thực hiện đề tài “Vũ Như Tô của Nguyễn Huy Tưởng dưới góc nhìn thể
loại”, trước hết người viết muốn tìm hiểu những đặc trưng, đặc điểm cơ bản của thể
loại kịch nói chung và tác phẩm kịch Vũ Như Tô nói riêng. Đi sâu khảo sát từng khía
cạnh độc đáo, nổi bật đặc trưng của tác phẩm kịch Vũ Như Tô qua đó làm nổi bật lên
tài năng nghệ thuật của Nguyễn Huy Tưởng, cũng như cố gắng lí giải thêm về bi kịch
của Vũ Như Tô, quan điểm lập trường của tác giả.Và điều quan trọng nhất là, Vì đề
tài của luận văn là Vũ Như Tô của Nguyễn Huy Tưởng dưới góc nhìn thể loại nên
mục đích chính của luận văn là nhìn nhận, đánh giá tác phẩm Vũ Như Tô ở góc độ
của một tác phẩm kịch.
4. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài luận văn là “Vũ Như Tô của Nguyễn Huy Tưởng dưới góc nhìn thể
loại” vì thế phạm vi nghiên cứu của người viết chủ yếu là tác phẩm kịch lịch sử Vũ
Như Tô của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng. Về kịch thì người viết chủ yếu nghiên cứu
về những đặc trưng, đặc điểm của thể loại. Về tác phẩm kịch Vũ Như Tô thì người viết
dựa vào những đặc trưng, đặc điểm của kịch để nhìn nhận, đánh giá, phân tích tác
phẩm dưới góc nhìn của thể loại.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài “Vũ Như Tô của Nguyễn Huy Tưởng dưới góc nhìn thể
loại” trước tiên người viết tổng hợp, chọn lọc những tài liệu có liên quan đến đề tài.
Sau đó, người viết đã dùng phương pháp phân tích, phương pháp tiểu sử và phương
pháp so sánh để nghiên cứu.
GVHD: Bùi Thanh Thảo
-9-
SVTH: Châu Thanh Mộng
“Vũ Như Tô” của Nguyễn Huy Tưởng dưới góc nhìn thể loại
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG MỘT: VÀI NÉT VỀ KỊCH VÀ TÁC GIA
NGUYỄN HUY TƯỞNG
1.1. Vài nét về kịch
1.1.1. Khái niệm
Thuật ngữ Kịch được dùng theo hai cấp độ.
Ở cấp độ loại hình kịch là một trong ba phương thức sáng tác cơ bản của
văn học (kịch, tự sự, trữ tình). Kịch vừa thuộc sân khấu vừa thuộc văn học. Nó vừa để
diễn là chủ yếu và vừa để đọc. Vì vậy, kịch bản là phương diện văn học của kịch.
Song nói đến kịch là phải nói đến sự biểu diễn trên sân khấu của các diễn viên bằng
hành động, cử chỉ, điệu bộ và bằng lời nói (riêng kịch câm thì không diễn tả bằng lời).
Kịch được xây dựng trên cơ sở những mâu thuẫn lịch sử, xã hội hoặc những
xung đột muôn thuở mang tính toàn nhân loại (như giữa thiện và ác, cao cả và thấp
hèn, ước mơ và hiện thực…). Những xung đột ấy được thể hiện bằng một cốt truyện
có cấu trúc chặt chẽ qua hành động của các nhân vật kịch và theo những qui tắc nhất
định của nghệ thuật kịch.
Trong kịch thường chứa đựng nhiều kịch tính, tức là những sự căng thẳng do
tình huống tạo ra đối với nhân vật.
Phần lớn kịch được xây dựng dựa trên hành động bên ngoài với những diễn
biến của chúng theo nguyên tắc có sự đấu tranh chống lại, của các nhân vật. Tuy
nhiên, kịch cũng có hành động bên trong. Qua đó nhân vật chủ yếu là suy ngẫm và
chịu đựng một tình huống xung đột bên trong hết sức căng thẳng.
Trong kịch những lời phát biểu của nhân vật (trong đối thoại hay trong độc
thoại) nói lên hành động, ý chí và sự tự khám phá tích cực của họ có một ý nghĩa
quyết định. Còn những lời trần thuật (câu chuyện kể của nhân vật về những điều đã
qua, sự thông báo của người dẫn truyện, những lời chỉ dẫn của tác giả trong kịch bản)
chỉ đóng vai trò thứ yếu và nhiều khi không cần đến.
GVHD: Bùi Thanh Thảo
- 10 -
SVTH: Châu Thanh Mộng
“Vũ Như Tô” của Nguyễn Huy Tưởng dưới góc nhìn thể loại
Về mặt kết cấu vở kịch thường chia thành nhiều hồi, cảnh nhằm tạo ra sự trùng
khớp giữa thời gian, địa điểm, và hành động kịch, đồng thời làm cho cái được diễn
mang màu sắc xác thực của đời sống. Qua các thế kỉ khác nhau, mối quan hệ giữa ba
yếu tố thời gian, địa điểm, hành động trong kết cấu của kịch, không ngừng thay đổi
tùy theo quan niệm của người sáng tạo và qui mô tầm vóc của những sự kiện biến cố
được phản ánh.
Trên cấp độ loại hình, kịch bao gồm nhiều thể loại: bi kịch, hài kịch, chính
kịch cùng nhiều tiểu loại và biến thể khác nhau.
Ở cấp độ loại thể, thuật ngữ kịch (dram) được dùng để chỉ một thể loại văn
học – sân khấu có vị trí tương đương với bi kịch và hài kịch. Với ý nghĩa này kịch
cũng còn gọi là chính kịch (hoặc kịch dram). Cũng giống như hài kịch, kịch tái hiện
cuộc sống riêng của con người bình thường nhưng mục đích chính không phải là cười
nhạo, chế giễu các thói hư tật xấu, mà là mô tả cá nhân trong các mối quan hệ chứa
đựng kịch tính với xã hội. Và cũng giống với bi kịch, kịch chú trọng tái hiện những
mâu thuẫn gay gắt, song những xung đột của nó không căng thẳng đến tột độ, không
mang tính chất vĩnh hằng và về nguyên tắc có thể giải quyết được ổn thỏa. Còn các
tính cách của kịch thì không có gì đặc biệt phi thường.
Kịch hình thành như một thể loại vào nữa sau thế kỉ XVIII qua sáng tác của
các nhà khai sáng ở Pháp và ở Đức như Điđơrô (1713 – 1784), Bômacse (1732 –
1799), Letxing (1729 – 1781) v.v… Nó hướng về những lợi ích tinh thần đạo đức, về
lí tưởng của các lực lượng dân chủ tiến bộ đương thời. Trong quá trình phát triển của
kịch, tính kịch bên trong của nó ngày càng cô động, dồn nén hơn. Nó cũng tiếp nhận
những thủ pháp nghệ thuật, những phương tiện biểu đạt của các thể loại văn học sân
khấu khác như bi hài kịch, kịch hề v.v… Để tăng thêm sức hấp dẫn và tác động nghệ
thuật của nó đối với công chúng. Ở Việt Nam kịch ra đời vào cuối những năm 20 của
thế kỉ XX, với những tác phẩm như Chén thuốc độc của Vũ Đình Long, Kim tiền của
Vi Huyền Đắc v.v… Từ sau cách mạng tháng tám kịch ngày càng chiếm vị trí quan
trọng trong đời sống văn học – sân khấu và xã hội ở nước ta.
1.1.2. Xung đột kịch
GVHD: Bùi Thanh Thảo
- 11 -
SVTH: Châu Thanh Mộng
“Vũ Như Tô” của Nguyễn Huy Tưởng dưới góc nhìn thể loại
Xung đột là một đặc trưng của kịch bản văn học. Thông qua tác phẩm văn học
nhà văn muốn phản ánh cuộc sống hiện thực bằng những hình tượng văn học thông
qua các mâu thuẫn. Bằng cách trực tiếp hay gián tiếp nhà văn đều mong muốn người
đọc thấy được những mâu thuẫn trong cuộc sống. Những mâu thuẫn này mặc dù tốn
tại ở những trạng thái, mức độ và tính chất nhất định nhưng chúng có điểm chung là
đều phản ánh hiện thực. Vào những thời điểm cụ thể, thích hợp thì những mâu thuẫn
đó mới phát triển đến cao trào và trở thành những xung đột đối lặp và thể hiện một
cách rõ nét bản chất của hiện thực.
Những xung đột trong cuộc sống đã được các nhà văn sử dụng làm cơ sở cho
sự sáng tạo nghệ thuật, bằng cách làm như thế nhà văn đã đến với hiện thực bằng con
đường ngắn nhất. Phađêep từng khẳng định: “Xung đột là cơ sở của kịch”. Tuy vậy,
điều đó không có nghĩa rằng phủ nhận hoàn toàn những thể loại khác không có xung
đột. Trong thơ ta thấy có những trạng thái cảm xúc của những cung bậc khác nhau:
vui và buồn, hạnh phúc và đau khổ… Trong tiểu thuyết, truyện ngắn thì sự mâu thuẫn
phát sinh ngay ở cốt truyện và ở tính cách nhân vật. Với kịch, yếu tố xung đột là một
mắc xích cực kì quan trọng đối với cả tác phẩm kịch, nó điều phối mọi hành động
kịch, nó dẫn dắt nhân vật kịch đến những mối quan hệ mới theo những chiều hướng
nhất định.
Thiếu xung đột kịch sẽ mất đi đặc trưng đầu tiên của thể loại, sẽ trở thành vô
nghĩa (theo cách đánh giá của Aritốt), hoặc “chỉ có thể là những vỡ kịch tồi” (theo
cách gọi của Lunatratxki). Nếu không có xung đột tác phẩm kịch sẽ không tồn tại với
đầy đủ ý nghĩa của nó, nhưng để nêu bật lên những vấn đề thuộc về bản chất xã hội,
đòi hỏi người viết kịch phải xây dựng nên những tác phẩm kịch mang những xung đột
có ý nghĩa xã hội sâu sắc. “Giữa dòng hiện thực trong nó bao gồm sự vận động đa
chiều của các phạm trù thẩm mĩ: Cái đẹp – cái xấu; cái cao cả - cái thấp hèn; cái
thiện – cái ác; cái cũ – cái mới. xung đột kịch thường nằm ở thời điểm cao trào của
sự vận động ấy” [ 8; 202 ].
Từ những xung đột mang tính chất đời thường của cuộc sống hiện thực, nhà
viết kịch phải sàn lọc, lựa chọn, tổng hợp sáng tạo và hư cấu nên những xung đột
mang tính chất bao trùm, và phải hết sức chân thực. Nghĩa là những xung đột trong
GVHD: Bùi Thanh Thảo
- 12 -
SVTH: Châu Thanh Mộng
“Vũ Như Tô” của Nguyễn Huy Tưởng dưới góc nhìn thể loại
kịch phải được xây dựng theo phương thức điển hình hóa. “Xung đột kịch có thể dẫn
đến bất lợi, tiêu vong cho một phía như trong bi kịch, cũng có thể hòa điệu hơn trong
hài kịch. Xung đột kịch có thể là sự đụng độ, va chạm quyết liệt giữa những mâu
thuẫn đối kháng về giai cấp, về thời dại như trong các vở kịch lịch sử (Pôgôđin,
Nguyễn Huy Tưởng, Đào hồng Cẩm…). Xung đột kịch cũng có thể mang sắc thái trữ
tình như trong kịch tâm lí (Acbuđốp, Lưu Quang Vũ…); xung đột kịch có thể biểu thị
bằng mối xung đột giữa tính cách và hoàn cảnh, giũa tính cách và tính cách, hoặc
ngay trong bản thân một tính cách… Tất cả phải đạt đến tính chân thực và sự điển
hình”[8; 203]. Từ những mâu thuẫn trong các tác phẩm kịch ấy lại sinh ra kịch tính.
Và kịch tính là một đặc trưng cơ bản của thể loại kịch.
Trong những vở kịch của Shakespeare như: Vua Lia, Hamlet, Rômêô và Juliét,
Vua Ơđíp của Sophocles, Vũ Như Tô của Nguyễn Huy Tưởng… “là những tác phẩm
giàu kịch tính. Vì khi phản ánh những mâu thuẫn, xung đột của hiện thực đời sống
các vở kịch ấy làm nổi bật sức mạnh của hành động có lí do, có ý đồ, có động cơ thể
hiện khuynh hướng tính cách, cùng ý chí tự do của con người, và vì hoạt động ấy con
người phải gánh chịu một hậu quả một trách nhiệm nào đó” [16; 213] . Cốt truyện vở
kịch Âm mưu và tình yêu được xây dựng trên cơ sở tình yêu trong trắng, thắm thiết
của một đôi trai tài gái sắc Phecdinan và Luidơ với những âm mưu xấu xa, đen tối của
triều đình phong kiến, cùng bọn quan lại muốn hủy hoại nó. Những mâu thuẫn ấy trở
thành kịch tính khi có sự xuất hiện của những hành động đối nghịch giữa cha và con,
giữa gia đình ông nhạc sư nghèo và tể tướng Phônvante. Phecdinan đe dọa tể tướng, tể
tướng làm kế li gián khiến Phecđinan và Luidơ nghi ngờ nhau. Phecđinan tuyệt vọng
lấy thuốc độc để hai người cùng uống và mãi cho đến khi sắp chết họ mới nhận ra
những âm mưu nham hiểm. Vở kịch đúng là một chuỗi hành động liên tục, có lí do,
có động cơ, có ý đồ thúc đẩy nhau và các nhân vật đều nhận ngay kết quả hành động
của mình.
1.1.3. Hành động và cốt truyện kịch
Kịch chủ yếu là để trình diễn trên sân khấu. Do đó thời gian và không gian
trong kịch không chấp nhận sự dài dòng phức tạp. Do hạn chế về không gian và thời
gian, kịch không cho phép các nhân vật biểu diễn, hành động phức tạp, mà phải thật
GVHD: Bùi Thanh Thảo
- 13 -
SVTH: Châu Thanh Mộng
“Vũ Như Tô” của Nguyễn Huy Tưởng dưới góc nhìn thể loại
rõ ràng, cụ thể, ngắn gọn nhưng súc tích, dễ hiểu, dể nắm bắt, nhằm diễn tả những nội
dung thật rõ ràng, mạch lạc, hướng người xem đến một ý nghĩa cụ thể. Chính vì thế,
cốt truyện kịch phải thật tập trung. Tính tập trung của cốt truyện kịch đã được thống
nhất từ xưa đến nay Aristốt nói: “Không nên sáng tác bi kịch theo lối sử thi. Tôi hiểu
lối kết cấu sử thi là nội dung bao gồm nhiều cốt truyện” [8; 402]. Nhà viết kịch Liên
Xô Abudốp nói: “Trong kịch không có yếu tố tùy hứng mà người nghệ sĩ có quyền
dung khi điều khiển những số phận con người trong các tiểu thuyết và các truyện. Ở
đây có một khuôn khổ rất chặt chẽ, đây là 85 trang giấy viết kín, không có thì giờ mạn
đàm, giải thích bàn luận, ta không có quyền làm việc đó.” [8; 427]. Trong tác phẩm
kịch đòi hỏi cốt truyện phải thật cô đọng gãy gọn, chứa đựng những tình tiết, sự kiện
thật sự cần thiết, tiêu biểu, mang những nội dung rõ ràng, cụ thể. Kịch không chấp
nhận những tình tiết, sự kiện dài dòng không rõ ràng, những chi tiết miêu tả cảnh
thiên nhiên, nội tâm, tính cách nhân vật… như trong tiểu thuyết. Chẳng hạn, trong hồi
đầu vở Ba chị em của Shêkhốp, tại nhà riêng Prôdôrốp, xuất hiện Vócsinin, người mà
lần đầu tiên Masa quen và thích truyện trò; Tuđenbac thổ lộ tình yêu với Irina;
Prôdôrốp ngỏ lời cầu hôn với Natasa. Và tất cả những sự việc ấy chỉ diễn ra trong
vòng hơn một giờ. Cốt truyện kịch phải thật tập trung không thừa không thiếu, phù
hợp với ý đồ của tác giả, cũng như những qui định của thể loại. Ví dụ như, khi đưa
Truyện kiều lên sân khấu, thì không thể diễn lại toàn bộ quá trình 15 năm lưu lạc của
Thúy Kiều cho đến cảnh đoàn viên giống như trong tác phẩm được. Mà ta chỉ có thể
khái quát lên thành 3 vở chính: Thúy Kiều – Kim Trọng; Thúy Kiều – Thúc Sinh;
Thúy Kiều – Từ Hải để phù hợp với thể loại kịch.
Hành động kịch không chỉ bao gồm những động tác, cử chỉ, thái độ, quan hệ
của diễn viên mà nó còn bao gồm cả những tiến triển của toàn vở, ý đồ nghệ thuật của
tác giả… Tất cả đều phải phụ thuộc vào sự chỉ đạo của đạo diễn, tài diễn xuất của
diễn viên. Nhưng điều tất yếu là phải dựa vào văn bản cụ thể. Có như thế mới diễn tả
được tất cả những tinh hoa, những giá trị nội dung tư tưởng mà tác giả muốn đề cập
và phản ánh đối với người thưởng thức cũng như đối với toàn xã hội.
Hành động của diễn viên được chia làm hai loại chính: hành động xuyên và
hành hộng quán xuyến. Cả hai hành động này phải dựa vào cốt truyện mà thực hiện.
GVHD: Bùi Thanh Thảo
- 14 -
SVTH: Châu Thanh Mộng
“Vũ Như Tô” của Nguyễn Huy Tưởng dưới góc nhìn thể loại
hành động xuyên nhằm thể hiện những tư tưởng nội dung mà nhân vật mình sắm vai,
và trong suốt quá trình thực hiện vở diễn đó những hành động xuyên lien tục được
trình diễn và tập hợp lại thành một hành động quán xuyến thể hiện nội dung tư tưởng
của toàn vở diễn.
Trong toàn bộ vở diễn ngoài việc có một kịch bản hay, một nội dung nhiều ý
nghĩa, thì sự hợp lí và hòa nhịp của hành động và cốt truyện kịch sẽ làm cho tác phẩm
kịch thành công với toàn bộ giá trị của mình. Sự thống nhất giữa hành động và cốt
truyện kịch đòi hỏi nhiều yếu tố, mà chủ yếu là do đạo diễn và diễn viên. Đặc biệt là
diễn viên, diễn viên phải thực sự phù hợp với vai diễn của mình, phải nắm bắt được
vấn đề, hòa phối nhịp nhàng trong từng hành động nhằm thể hiện được những vấn đề,
cũng như yêu cầu mà cốt truyện đề ra. Diễn viên phải thực sự nhập vai diễn xuất một
cách vừa nghệ thuật, vừa logic, khoa học, nhằm đạt hiệu quả truyền đạt cao nhất. Cốt
truyện và hành động kịch phải thống nhất, tập trung, đòi hỏi chi tiết, tình tiết, sự kiện
không những phải cô đúc, gãy gọn, mà còn phải liên đới với nhau một cách chặt chẽ,
lôgíc, tất yếu, tự nhiên. Létxing nói: “Nhà viết kịch chân chính cố suy tính tính cách
của các nhân vật sao cho các sự việc thúc đẩy nhân vật hành động, được diễn ra từ sự
việc này đến sự việc kia một cách tất yếu” [ 8; 404]. “Cốt truyện kịch tập trung là cốt
truyện tạo được sự thống nhất cao độ giữa hệ thống sự kiện biến cố, các chi tiết, tình
tiết với tư tưởng chủ đề cơ bản và hứng thú trung tâm mà vở diễn mang đến cho công
chúng. Lí luận kịch gọi đó là sự thống nhất của hành động” [16; 215]. Điều đó có
nghĩa là một tác phẩm kịch muốn diễn đạt được tất cả những giá trị nội dung tư tưởng
của mình, thì đòi hỏi hành động và cốt truyện kịch phải thật ăn khớp và thống nhất
với nhau một cách đồng điệu, chặt chẽ, hợp lí. Bởi vì nếu không thể thống nhất với
nhau thì một tác phẩm kịch sẽ bị tháo vụn thành những bộ phận đơn lẻ, cốt truyện sẽ
đi một đằng, còn hành dộng kịch lại đi một nẻo. Điều này làm cho vở kịch không có
giá trị gì, khiến người xem không hiểu đúng nội dung tác phẩm một cách đúng đắn
nhất, và đó sẽ là một vở kịch tồi. Ngay ở đặc điểm này ta nhận thấy một sự khác biệt
giữa kịch và tác phẩm tự sự, trong cách tổ chức cốt truyện. L. Tônstoi nói rằng: “Tư
tưởng gia đình là tư tưởng cơ bản của tiểu thuyết Anna Karênhina. Để làm nổi bật tư
tưởng ấy, Tônstoi tập trung, một mặt, phản ánh quá trình sụp đổ, tan vỡ không thể
GVHD: Bùi Thanh Thảo
- 15 -
SVTH: Châu Thanh Mộng
“Vũ Như Tô” của Nguyễn Huy Tưởng dưới góc nhìn thể loại
tránh khỏi của gia đình trong gia đình đời sống của các giai cấp thống trị, mặt khác,
ông khẳng định chỉ có đời sống nhân dân là mảnh đất màu mỡ nuôi dưỡng, vun xới
cho những gia đình khỏe khoắn, lành mạnh. Tolstoi phơi bày sự phóng đãng của Bétti
và Tuskevich, những cuộc tình vụng trộm của Oblônxki, thói trăng hoa nịnh đầm của
Veexlôpxki, sự giả dối trong cách giáo dục của các gia đình thượng lưu, và cuối cùng
là tấn bi kịch của Anna Karênhina. Đồng thời, nhà văn miêu tả gia đình Lêvin như
một tấm gương sáng trong việc giải quyết vấn đề gia đình. Trong tiểu thuyết, Tôlstoi
đặt ra nhiều vấn đề có liên quan tới tư tưởng trung tâm của tác phẩm, ví như vấn đề
nghịch lí của đời sống, hay những vấn đề nghệ thuật. Khi nhà hát Viện Hàn lâm Nghệ
thuật Moskva chuyển thể Anna Karênhina thành vở diễn sân khấu, đạo diễn chỉ giữ
lại một cốt truyện xoay quanh mối tình tay ba giữa các nhân vật: Anna – Karenhin,
Vrônxki” [16; 216].
Cốt truyện của tác phẩm kịch thường được xây dựng theo nguyên tắc “ở hiền
gặp lành ở ác gặp ác”. Tức là theo qui luật nhân quả. Tuy nhiên, qui luật ấy không
phải là những tình tiết bình thường, hiển nhiên, quá tất yếu mà nó diễn ra một cách
thích hợp, tuần tự hợp lí. Không thể xây dựng một cốt truyện đơn điệu, giải thích vấn
đề một cách thô thiển, giải quyết mâu thuẫn một cách nhẹ nhàng nhanh chóng, nếu
như thế sẽ làm cho khán giả nhàm chán, không có hứng thú, khi thưởng thức, đọc
xong tác phẩm kịch trong lòng họ không đọng lại một chút ấn tượng, cảm xúc. Trong
những tác phẩm tiểu thuyết dài hơi ta có thể đọc lướt những đoạn “trữ tình ngoại đề”,
những đoạn không thật sự hấp dẫn. Nhưng trong kịch thì không thể bắt khán giả lượt
bỏ những đoạn không hay (vì xem diễn trực tiếp). Do đó, nhất định trong kịch phải
xây dựng cốt truyện theo qui luật nhân quả nhưng phải biết tạo ra những khúc ngoặc,
những đột biến, những bước nhảy vọt, tạo sự bất ngờ cho người thưởng thức. Tạo ra
những buớc ngoặc rồi giải quyết vấn đề một cách hợp lí logic, nhưng không có nghĩa
là quá li kì, quá ngẫu nhiên. “Là nghệ thuật kịch còn là một hình ảnh chủ quan về
cuộc sống, sự phản ánh ở đây nhất thiết phải đi đôi với nhận thức, lí giải đầy tính tự
giác” [8;405]. Dẫu biết rằng trong cuộc sống có đầy những sự tình cờ ngẫu nhiên một
cách rất bất ngờ và thô thiển, nhưng tất cả đều có lí do, có thể lí giải chứ không hoàn
toàn là ngẫu nhiên, tình cờ… Trong kịch, nếu đưa vào quá nhiều yếu tố ngẫu nhiên sẽ
GVHD: Bùi Thanh Thảo
- 16 -
SVTH: Châu Thanh Mộng
“Vũ Như Tô” của Nguyễn Huy Tưởng dưới góc nhìn thể loại
làm cho người thưởng thức nhàm chán, không còn hứng thú nữa. đã đành, sự bất ngờ
nào cũng mang yếu tố ngẫu nhiên nhưng phải là những yếu tố ngẫu nhiên có thể lí
giải logic hay tình huống dự báo. Đọc Bắc Sơn của Nguyễn Huy Tưởng ban đầu ta
thấy Thơm là một con người mềm yếu, nhút nhát, chỉ biết quanh quẩn ở nhà, ai nói gì
nghe nấy, đến nỗi chồng cô là Việt gian mà cô cũng không biết, cô rất sợ sệt và nghe
lời chồng. Tuy nhiên, đến lúc cuối cùng cô đã sẵn sàng hi sinh thân mình để giúp đỡ
Bộ đội, bảo vệ những chiến sĩ cộng sản. Sự việc bất ngờ này hoàn toàn phù hợp với
tính cách của cô. Tuy nhút nhát nhưng Thơm được sinh ra trong một gia đình yêu
nước, cô căm giận bọn phản quốc vì chúng đã giết cha và em cô.
Đọc Lôi Vũ, thấy Tứ Phượng trong cơn hoang mang tột độ bỏ chạy ra khỏi nhà
Chu Phát Viên, vấp phải sợi dây điện đứt, Chu Xung chạy theo ra cứu, cũng bị điện
giật chết. Quả là bất ngờ, nhưng thật ra tác giả đã dự báo tình huống từ trước. Ngay từ
màn một, đã có thời tiết rất oi bức, báo hiệu trờ sắp nổi cơn dông. Đến màn ba thì
“mưa to gió lớn suốt từ đầu đến cuối”. Và đến màn bốn thì qua lời đối thoại của Chu
Phát Viên và Người đầy tớ già đã nói rõ, trong mưa bão, dây điện bị đứt, thợ chưa
dám chữa, con chó chạy ngang qua đã bị dây điện giật chết… Nếu thực hiện những
nguyên tắc như trên, tác phẩm kịch sẽ tạo cho người thưởng thức những khoái cảm,
theo dõi được những tình tiết, những tình huống của tác phẩm kịch một cách liền
mạch không đứt đoạn.
Mĩ học của Chủ nghĩa cổ điển ở thế kỉ XVII đề xuất nguyên tắc “tam duy
nhất”. Nguyên tắc ấy qui định mỗi tác phẩm kịch phải trình bày một hành động kịch
xuyên suốt. Hành động ấy chỉ được diễn ra ở một thời điểm và không kéo dài quá 24
giờ. Và hành động kịch ấy phải dựa vào một cốt truyện một nội dung duy nhất để thể
hiện. Những tác phẩm nào tuân thủ theo nguyên tắc ấy mới được công nhận là kịch.
Đến thế kỉ thứ XVII, XIX xuất hiện những vở kịch dường như thiếu kịch tính, xung
đột diễn ra không quá căng thẳng quyết liệt. Nhưng những tác phẩm này vẫn chú
trọng đến việc thống nhất giữa hành động và cốt truyện kịch, “chính sự thống nhất của
tâm trạng, tình cảm đã tạo ra bầu không khí vây bọc các nhân vật đã tạo nên sự thống
nhất của hành động kịch. Ở đây mạch ngầm văn bản giữ một vị trí vô cùng quan
trọng. Việc tôn trọng nguyên tắc về sự tập trung của cốt truyện đã chi phối các hình
GVHD: Bùi Thanh Thảo
- 17 -
SVTH: Châu Thanh Mộng
“Vũ Như Tô” của Nguyễn Huy Tưởng dưới góc nhìn thể loại
thức tổ chức bố cục của kịch bản văn học. Một vở kịch thường được chia thành ba
hoặc năm hồi tương ứng với ba giai đoạn vận động rất mau lẹ của hành động kịch:
“thắt nút; đỉnh điểm, mở nút.”
1.1.4. Nhân vật kịch
Trước tiên chúng tôi muốn nói rằng chỉ ở kịch là có nhân vật. Tuy nhiên nói
như thế không có nghĩa là thể loại tự sự và trữ tình là không có nhân vật. Mà ở các thể
loại này không những có nhân vật mà còn có nhiều nữa là đằng khác, nhưng bên cạnh
các nhân vật thì các thể loại này còn có các yếu tố khác nữa như: ngoại cảnh, môi
trường… Còn trong kịch thì chỉ có nhân vật mà thôi, còn cảnh vật thì không đáng kể
và không thực sự cần thiết.
Tuy trong tác phẩm kịch chỉ có nhân vật là chủ yếu, nhưng nhân vật trong kịch
lại không nhiều, chỉ những nhân vật có tham gia vào hành động kịch mới được phép
xuất hiện. Còn những nhân vật thừa, nhân vật vắng mặt (nhân vật chức năng) thì
không được phép xuất hiện. Đây chính là yêu cầu và qui định của thể loại. Mặt khác,
do hạn chế về thời gian và không gian trình diễn, cũng như tác phẩm kịch thông qua
nhân vật thể hiện một vấn đề nào đó của xã hội vì thế chỉ được phép xuất hiện những
nhân vật cần thiết để thể hiện vấn đề đó. Trong kịch không nên đề cập đến quá nhiều
nhân vật như trong tiểu thuyết (Tam quốc chí, Chiến tranh và hòa bình, Tây du kí…).
Ngoài ra trong kịch cũng không có nhân vật người kể truyện vì kịch chủ yếu là để
diễn trên sân khấu. Gorki nói: “Trong tiểu thuyết, trong truyện những con người được
tác giả miêu tả hành động với sự giúp đở của tác giả, tác giả luôn luôn ở bên họ…
Kịch không cho tác giả tự do can thiệp như vậy, kịch loại trừ việc tác giả mách nước
cho độc giả”. Điều đó có nghĩa là trong những tác phẩm tự sự nhân vật người kể
chuyện – tác giả xuất hiện với một mật độ khá dày đặc và chủ yếu. Nhân vật người kể
chuyện tự do điều khiển nhân vật theo khuynh hướng chủ quan của mình. Còn trong
kịch khi đưa lên sân khấu nhân vật hoàn toàn tự do, họ hành động một cách tự chủ
(phụ thưộc vào văn bản và cốt truyện).
Do hạn chế nhiều về không gian và thời gian (mà đặc biệt là về thời gian vì
một vở kịch chỉ được trình diễn trong vài giờ), nên nhân vật kịch được khắc họa với
GVHD: Bùi Thanh Thảo
- 18 -
SVTH: Châu Thanh Mộng
“Vũ Như Tô” của Nguyễn Huy Tưởng dưới góc nhìn thể loại
những nét tính cách đơn giản nhất. Không thể xây dựng nhân vật kịch với một tính
cách quá ư phức tạp, khó nắm bắt như trong tiểu thuyết. Những nét tính cách nhân vật
phức tạp như trong tiểu thuyết nếu đọc một lần không hiểu có thể đọc lại nhiều lần.
Còn trong kịch thì không thể bắt diễn viên diễn lại những đoạn mà khán giả không
hiểu được. Vì vậy, tính cách nhân vật trong kịch phải thật nổi bật và đơn giản. Hêghen
nói: “Các nhân vật kịch phần đông điều đơn giản mặt bên trong hơn so với các hình
tượng tự sự” [8; 407]. Timôfêep còn giải thích thêm: “Hình tượng kịch phản ánh
những mâu thuẫn của cuộc sống đã chín mùi gay gắt nhất và đã được xác định, chính
vì vậy nó được xây dựng trên cơ sở nhấn mạnh trong tính cách con người cảm xúc
phiến diện do các mâu thuẩn trên qui định” [8; 407]. Trong những tác phẩm kịch cổ
điển ta dễ dàng nhận ra sự nổi bật trong tính cách của nhân vật: Ôtelô dữ dội, quyết
liệt; Iagô nham hiểm, giả dối; Đexđêmôna trong trắng, ngây thơ, Acpagông keo kiệt,
bủn xỉn; Hamlet dũng cảm, anh hùng…Tuy nhiên, bên cạnh những nét tính cách nổi
bật đó thì nhân vật kịch còn có một tính cách hay một phẩm chất khác ví dụ như: bên
cạnh sự dữ dội và quyết liệt (nổi bật) Ôtenlô còn là một người ghen tuông, tự ti vì da
màu, hay Acpagông bên cạnh tính keo kiệt, bủn xỉn còn là một người tham lam, đạo
đức giả… Và dù có nhiều tính cách khác vây quanh một tính cách nổi bật khác thì xét
cho cùng, những tính cách ấy cũng đi theo một chiều hướng nhất định và phù hợp với
nhau, cùng là âm tính hoặc dương tính.
Phương tiện thể hiện nhân vật từ ngoại hình, tính cách, tình cảm… là ngôn
ngữ. Ở đây, chủ yếu là ngôn ngữ đối thoại. Thông qua lời thoại của các nhân vật trong
kịch, ta có thể biết nhân vật đó là người như thế nào. Đây là một điểm khá nổi bật
trong kịch mà hầu như là trong tự sự và trữ tình là không hề có. Nhân vật trong kịch
được miêu tả một cách cụ thể, tỉ mỉ. Qua lời kể của tác giả, ta biết nhân vật đó là
người như thế nào. Ví dụ như nhân vật Chí Phèo trong truyện ngắn cùng tên của Nam
Cao “Đọc Chí Phèo ta nhận thấy rằng tính cách của Chí không bao giờ đồng nhất với
bản thân. Bên cạnh việc Chí là một con quỉ dữ của Làng Vũ Đại, phá hoại biết bao cơ
nghiệp, hạnh phúc của người khác, Chí còn là một con người có một trái tim khao
khát yêu thương. Một mặt Chí là công cụ, là tay sai đắc lực của giai cấp thống trị, mặt
khác Chí là một nô lệ thức tỉnh. Khi là công cụ của giai cấp thống trị, Chí chỉ là một
GVHD: Bùi Thanh Thảo
- 19 -
SVTH: Châu Thanh Mộng
“Vũ Như Tô” của Nguyễn Huy Tưởng dưới góc nhìn thể loại
thằng khùng, thằng say, một con quỉ. Nhưng đến khi trở thành một kẻ nô lệ thức tỉnh,
Chí lại có óc sáng sủa nhất làng Vũ Đại, biết đặt ra những câu hỏi vượt cả tầm khôn
ngoan của Bá Kiến. Đó là một tính cách chứa đựng nhiều mâu thuẫn nghịch lí, qua đó
phản ánh môi trường xã hội mà nhân vật đang sống. Nam cao đã phơi bày nhiều
phương diện của đời sống người nông dân và nông thôn Việt Nam trước năm 1945.
Đây là một xã hội phức tạp, người nông dân rất dễ bị tha hóa biết chất do sự tác động
của giai cấp thống trị bấy giờ. Trong kịch, như trên đã nói không có nhân vật người kể
chuyện – tác giả. Vì thế, nhân vật kịch chỉ được miêu tả chủ yếu thông qua những
đoạn đối thoại.
VD: Qua đoạn đối thoại dưới đây ta thấy Ông Cụ Phương là một con người rất
nhiệt tình, hăng hái tham gia hoạt động cách mạng. Ông khuyến khích, động viên
người nhà nên tham gia cách mạng, đồng thời qua lời của ông ta thấy được khí thế
cách mạng của đồng bào Bắc Sơn thật sôi nỗi và đồng lòng.
ÔNG CỤ PHƯƠNG: - Mấy mẹ con trông ra ngoài kia mà xem! Thiên hạ người ta đi
biểu tình. Trâu cũng đi biểu tình. Bò cũng đi biểu tình. Cả cái tổng Nhất Thể này
người ta đi biểu tình. Thế mà ba mẹ con ở nhà được! Giỏi! Gan đấy! Thế mới là gan!
Gan đánh tây được đấy. Gan ấy thì Tây phải sợ chớ sao lại sợ Tây.
BÀ CỤ PHƯƠNG: - Tôi già lẫn cẫn đi để nạt ai?
ÔNG CỤ PHƯƠNG: - Thế bà ra chỗ này mà xem. Bà cụ Na kia kìa, bà biết đấy, bà
cụ ấy cũng chống gậy đi biểu tình, bắt cả con cả cháu đi biểu tình về chết cũng sướng.
Ra đây tôi chỉ cho. (Bà Phương lùi lại). Thế còn vợ chồng anh thằng Sáng. Cũng lẫn
cẫn nốt.
NGỌC: - Con cũng định đi đấy, nhưng sợ mé con ở nhà một mình nên đến đây. Lúc
nãy đánh nhau, mé con sợ quá.
ÔNG CỤ PHƯƠNG: - Người ta đánh nhau với Tây, đạn nổ bên người còn chả sợ, sợ
cho bà mé ở nhà! Thôi, hiếu hạnh thế cũng được.[10; 117,118]
Bên cạnh đó, thông qua những lời đối thoại và độc thoại, nhân vật bộc lộ thế
giới nội tâm của mình. Về phương diện này, nhân vật kịch có phần gần gủi hơn với
nhân vật trữ tình. Thế giới nội tâm của nhân vật kịch không phải là thế giới tự đóng
kín trong bản thân. Lời của nhân vật kịch không phải là lời trầm tư trữ tình. Lời nói
GVHD: Bùi Thanh Thảo
- 20 -
SVTH: Châu Thanh Mộng